Cháo cá vạc giường hay còn gọi là cháo cá, cháo bột, cháo canh. Thứ cháo khi thưởng thức vừa gắp bằng đũa, vừa ăn bằng thìa là món quà dân dã mà người dân Quảng Trị thường mời khách khi tới nơi đây.
Đất Quảng Trị vào ngày hè nắng nóng, lấy làm ngạc nhiên khi quán cháo cá lúc nào cũng đông nghịt khách, khách địa phương cũng có, khách du lịch cũng nhiều, một tay thìa, một tay đũa xì xụp đến ngon lành.
Người dân nơi đây gọi món này là cháo cá, còn khách du lịch hay gọi với cái tên mỹ miều là cháo vạc giường nghe rất lạ tai.
Sở dĩ, cái tên vạc giường xuất phát từ cách làm món cháo, cháo cá vạc giường không giống bất kỳ món cháo nào ngoài Bắc, không sột sệt, không đặc mà nấu bằng sợi bột gạo với cá lóc hay cá biển, khi thưởng thức dùng đũa để gắp sợi vạc giường và dùng thìa để húp nước dùng. Vị cháo cá ngon ngọt, thơm nức mê mẩn khách du lịch ngay từ lần ăn đầu.
Món cháo cá vạc giường này hấp dẫn bởi hương vị đặc trưng của bột gạo hay bột lọc và cá lóc. Gạo phải được ngâm kỹ rồi đem xay thành bột, rồi nhào bột cho thật kỹ, càng “vật” bột lâu, bột càng chín sẽ có được món cháo dai hơn, ngon hơn. Sau khi bột “chín” được cán mỏng rồi thái thành từng sợi nhỏ như những thanh tre của vạc giường, có lẽ vì thế nên mọi người gọi là cháo vạc giường. Đem luộc thứ bột vạc giường trong nước sôi, khi bột chín thành từng sợi dài, không hề nhão là được.
Còn cá lóc, nguyên liệu chính làm nên hương vị thơm ngon của bát cháo cũng được làm qua các bước khá công phu. Cá lóc hấp chín tới, nên chọn những con cá săn chắc sẽ dày thịt, lọc riêng thịt cá, xương cá, lòng cá. Xương và đầu cá đem giã nhỏ cất làm nước dùng, thịt cá ướp gia vị gồm tiêu, ớt, hành xào phi thật thơm. Lòng cá thường được cho vào nồi cháo, thứ lòng này được coi rất quý, vừa béo ngậy, vừa bổ, tăng vị ngọt và mỡ màng cho món cháo.
Khi thực khách ngồi vào bàn, chủ quán nhanh nhẹn múc vào một tô nhỏ xinh, một nhúm sợi vạc giường, một chút thịt cá lóc phi thơm, rắc thêm hành ngò, ớt tươi, sang thì có thêm “cỗ lòng cá lóc” rồi chan nước dùng. Thưởng thức bát cháo cá vạc giường khi nóng thì ngon tuyệt, vừa thơm mùi thịt cá, ngọt ngào sợi bột xen lẫn vị cay xè của ớt tươi.
Thực khách ăn lần đầu cứ hít hà mùi khói bốc lên nghi ngút từ tô cháo, một tay cầm đũa gắp từng sợi vạc giường, tay kia hớp lấy nước dùng đưa đẩy trong miệng, vừa ăn vừa xuýt xoa cái vị cay của ớt mà người dân nơi đây vẫn hay dùng.
Món cháo cá vạc giường này được ưa chuộng quanh năm, người dân Quảng Trị coi đây là món quà dân dã của quê mình, đậm chất gió Lào cát trắng, phảng phất vị mặn mòi của biển. Cũng chính những nét tinh túy đó đã kết thành món cháo cá đặc trưng hớp hồn bao du khách khi ghé tới nơi đây.
Du lịch, GO! - Theo THU HƯỜNG (Quảng Trị Online)
Hiển thị các bài đăng có nhãn Ẩm thực địa phương. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Ẩm thực địa phương. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Ba, 26 tháng 6, 2012
Thứ Hai, 25 tháng 6, 2012
Tản mạn đàn ông, quán xá và gái đẹp
Có thể hiểu được vì sao cánh đàn ông thích uống café ở những quán có nhiều cô phục vụ xinh xắn, đó là nhu cầu thưởng thức cái đẹp đơn thuần, vậy thôi.
Quán café vỉa hè ở đầu đường nhìn thẳng ra chợ Tân Định, chỉ mở từ khoảng 9 giờ tối khi tiệm vàng đóng cửa nhường khoảng sân đậu xe cho chủ quán bày bàn ghế và bán cho đến 4-5 giờ sáng – khi những tiểu thương bắt đầu lục tục chở hàng ra bày biện cho một ngày hy vọng đắt khách.
Tôi thường ra đây ngồi vào những hôm không ngủ được, hoặc những khi đột nhiên muốn nhìn thấy đời sống sôi động của Sài Gòn về đêm. Đối diện quán là dãy hàng ăn đêm lúc nào cũng tấp nập. Trong số đó có một hàng bán món bánh canh cua mà tôi rất thích ăn.
Bà chủ quán nói giọng miền Tây, thường ngồi lè phè trên chiếc ghế lười, ra lệnh, nhìn đường sá và nói chuyện trên trời dưới biển với khách. Bà có một cô cháu gái rất xinh đẹp, tướng tá ngon như người mẫu. Tôi rất thích nhìn cô vì cô tuy ra đây phụ bà chạy bàn nhưng vẫn luôn có vẻ gì rất sang trọng, khuôn mặt nghiêm túc ít khi cười càng tăng thêm vẻ kiêu sa.
Những khi không có khách, cô ngồi trên chiếc ghế đẩu bên cạnh bà, áo thun quần short, lưng thẳng, đầu thẳng, đôi chân dài miên man ý tứ khép lại đầy bí mật. Tôi thường ngồi từ bên này quán café và ngắm cô, chẳng để làm gì, và cũng không bao giờ bắt chuyện hay hỏi thăm, chỉ đơn giản là ngắm cô, một cô gái theo tôi là rất đẹp.
Có thể hiểu được vì sao cánh đàn ông thích uống café ở những quán có nhiều cô phục vụ xinh xắn, đó là nhu cầu thưởng thức cái đẹp đơn thuần, vậy thôi.
Ông chủ quán café tôi ngồi cũng có hai cô cháu gái. Ban đầu tôi tưởng ông chủ là chồng, cô chị là vợ, cô em là con gái. Về sau mới biết họ chỉ là chú cháu, hai cô gái (có lẽ mồ côi?) được chú nuôi từ nhỏ. Cô chị tròn trĩnh trắng trẻo đúng kiểu gái miền Tây, còn cô em thỉnh thoảng mới xuất hiện phụ giúp mỗi khi quán đông khách. Cô này cũng rất xinh đẹp, tuy trông có vẻ bình dân hơn cô cháu bà hàng bánh canh nhưng ở cô có nét gì đó rất ngây thơ trong sáng. Cô cũng ít nói và ít cười, đôi khi hay cáu nếu khách tỏ ra trêu cợt vì thấy cô dễ thương.
Những hôm ngồi café đó, tôi thường gặp một đôi bạn già. Hai người đàn ông hát dạo, một mù một què. Người què một chân chừng hơn 50 tuổi rất cao, mắt sáng, ông cầm một cái lắc tay kêu lích kích mỗi khi đập nhịp cho người mù vừa đàn vừa hát. Người mù khoảng hơn 60 tuổi thì nhỏ con, hơi gù có lẽ do tuổi tác và kham khổ.
Tối nào hai người cũng rảo quanh khu này vài lượt rồi đến gần 12 giờ sẽ tấp vào chỗ café tôi ngồi để làm một ấm trà nóng, nghỉ ngơi, ngắm phố và chuyện vãn. Tôi có một tình cảm đặc biệt với những người hát rong, không bao giờ tôi từ chối khi họ tới gần và thậm chí có khi chỉ chạy xe ngang qua bắt gặp tôi cũng dừng lại kiếm chút tiền lẻ còn sót lại để cho họ. Không phải mình ra vẻ ban phát, không phải mình thương hại, mà chỉ là làm một việc mà tôi muốn làm.
Tôi nhớ quán Út Nhung ngoài bờ kè Nhiêu Lộc cũng có hai vợ chồng đứng tuổi hát dạo và bán kẹo. Tôi không thích ăn kẹo nên có khi đưa tiền mà không lấy kẹo, bà vợ mỉm cười trả lại tiền, không nói gì mà chỉ lắc đầu làm tôi xấu hổ hết sức.
Lại nhớ đến khoảng thời gian đầu tôi mới đến Sài Gòn, lúc đó là năm 2003. Buổi sáng tôi ngồi trong tiệm internet trên đường Lê Văn Sỹ, trời thành phố ảm đạm và lất phất mưa. Rồi một giọng hát bất chợt cất lên, tiếng đàn guitar chậm rãi rảo theo: “nắng có hồng bằng đôi môi em, mưa có buồn bằng đôi mắt em, tóc em từng sợi nhỏ rớt xuống đời làm sóng lênh đênh…”, giọng hát rất quê, rất buồn, rất mộc mạc giản dị. Và đó là người mà theo tôi hát “Nắng thủy tinh” của Trịnh Công Sơn hay nhất.
Quay trở lại với mấy cô gái. Tôi nhớ anh Duy và anh Quang hay nhắc tới một cô em mặt rất xinh ở quán café Tigon ở Võ Văn Tần. Khi nghe hai ông bạn già kể về cô này, tôi và bà Minh cũng tò mò và dự tính hôm nào sẽ tạt qua ngắm gái một tí. Nhưng chưa kịp ngắm thì tới một ngày Duy thông báo nàng đã nghỉ phục vụ quán mà ra mở một quán riêng ở đâu đó khá xa.
Bởi vậy mới nói, gái đẹp không tự sinh ra cũng không tự mất đi, chỉ chuyển từ chỗ ngồi này sang chỗ ngồi khác. Cũng như sau một thời gian không còn thấy cô cháu gái của bà hàng ăn ngồi trên cái ghế đẩu nữa, tôi hỏi, thì được biết cổ đã lấy chồng và đi nước ngoài (hình như là Đài Loan). Rồi sau một thời gian nữa, hàng ăn đó cũng biến mất. Tôi chưa kịp hỏi xem bà chủ hàng dọn đi đâu thì đã phải đi xa một thời gian. Hy vọng đến khi trở lại, quán café và cô em út xinh đẹp vẫn còn.
Du lịch, GO! - Khương Hà (theo Litviet)
Quán café vỉa hè ở đầu đường nhìn thẳng ra chợ Tân Định, chỉ mở từ khoảng 9 giờ tối khi tiệm vàng đóng cửa nhường khoảng sân đậu xe cho chủ quán bày bàn ghế và bán cho đến 4-5 giờ sáng – khi những tiểu thương bắt đầu lục tục chở hàng ra bày biện cho một ngày hy vọng đắt khách.
Tôi thường ra đây ngồi vào những hôm không ngủ được, hoặc những khi đột nhiên muốn nhìn thấy đời sống sôi động của Sài Gòn về đêm. Đối diện quán là dãy hàng ăn đêm lúc nào cũng tấp nập. Trong số đó có một hàng bán món bánh canh cua mà tôi rất thích ăn.
Bà chủ quán nói giọng miền Tây, thường ngồi lè phè trên chiếc ghế lười, ra lệnh, nhìn đường sá và nói chuyện trên trời dưới biển với khách. Bà có một cô cháu gái rất xinh đẹp, tướng tá ngon như người mẫu. Tôi rất thích nhìn cô vì cô tuy ra đây phụ bà chạy bàn nhưng vẫn luôn có vẻ gì rất sang trọng, khuôn mặt nghiêm túc ít khi cười càng tăng thêm vẻ kiêu sa.
Những khi không có khách, cô ngồi trên chiếc ghế đẩu bên cạnh bà, áo thun quần short, lưng thẳng, đầu thẳng, đôi chân dài miên man ý tứ khép lại đầy bí mật. Tôi thường ngồi từ bên này quán café và ngắm cô, chẳng để làm gì, và cũng không bao giờ bắt chuyện hay hỏi thăm, chỉ đơn giản là ngắm cô, một cô gái theo tôi là rất đẹp.
Có thể hiểu được vì sao cánh đàn ông thích uống café ở những quán có nhiều cô phục vụ xinh xắn, đó là nhu cầu thưởng thức cái đẹp đơn thuần, vậy thôi.
Ông chủ quán café tôi ngồi cũng có hai cô cháu gái. Ban đầu tôi tưởng ông chủ là chồng, cô chị là vợ, cô em là con gái. Về sau mới biết họ chỉ là chú cháu, hai cô gái (có lẽ mồ côi?) được chú nuôi từ nhỏ. Cô chị tròn trĩnh trắng trẻo đúng kiểu gái miền Tây, còn cô em thỉnh thoảng mới xuất hiện phụ giúp mỗi khi quán đông khách. Cô này cũng rất xinh đẹp, tuy trông có vẻ bình dân hơn cô cháu bà hàng bánh canh nhưng ở cô có nét gì đó rất ngây thơ trong sáng. Cô cũng ít nói và ít cười, đôi khi hay cáu nếu khách tỏ ra trêu cợt vì thấy cô dễ thương.
Những hôm ngồi café đó, tôi thường gặp một đôi bạn già. Hai người đàn ông hát dạo, một mù một què. Người què một chân chừng hơn 50 tuổi rất cao, mắt sáng, ông cầm một cái lắc tay kêu lích kích mỗi khi đập nhịp cho người mù vừa đàn vừa hát. Người mù khoảng hơn 60 tuổi thì nhỏ con, hơi gù có lẽ do tuổi tác và kham khổ.
Tối nào hai người cũng rảo quanh khu này vài lượt rồi đến gần 12 giờ sẽ tấp vào chỗ café tôi ngồi để làm một ấm trà nóng, nghỉ ngơi, ngắm phố và chuyện vãn. Tôi có một tình cảm đặc biệt với những người hát rong, không bao giờ tôi từ chối khi họ tới gần và thậm chí có khi chỉ chạy xe ngang qua bắt gặp tôi cũng dừng lại kiếm chút tiền lẻ còn sót lại để cho họ. Không phải mình ra vẻ ban phát, không phải mình thương hại, mà chỉ là làm một việc mà tôi muốn làm.
Tôi nhớ quán Út Nhung ngoài bờ kè Nhiêu Lộc cũng có hai vợ chồng đứng tuổi hát dạo và bán kẹo. Tôi không thích ăn kẹo nên có khi đưa tiền mà không lấy kẹo, bà vợ mỉm cười trả lại tiền, không nói gì mà chỉ lắc đầu làm tôi xấu hổ hết sức.
Lại nhớ đến khoảng thời gian đầu tôi mới đến Sài Gòn, lúc đó là năm 2003. Buổi sáng tôi ngồi trong tiệm internet trên đường Lê Văn Sỹ, trời thành phố ảm đạm và lất phất mưa. Rồi một giọng hát bất chợt cất lên, tiếng đàn guitar chậm rãi rảo theo: “nắng có hồng bằng đôi môi em, mưa có buồn bằng đôi mắt em, tóc em từng sợi nhỏ rớt xuống đời làm sóng lênh đênh…”, giọng hát rất quê, rất buồn, rất mộc mạc giản dị. Và đó là người mà theo tôi hát “Nắng thủy tinh” của Trịnh Công Sơn hay nhất.
Quay trở lại với mấy cô gái. Tôi nhớ anh Duy và anh Quang hay nhắc tới một cô em mặt rất xinh ở quán café Tigon ở Võ Văn Tần. Khi nghe hai ông bạn già kể về cô này, tôi và bà Minh cũng tò mò và dự tính hôm nào sẽ tạt qua ngắm gái một tí. Nhưng chưa kịp ngắm thì tới một ngày Duy thông báo nàng đã nghỉ phục vụ quán mà ra mở một quán riêng ở đâu đó khá xa.
Bởi vậy mới nói, gái đẹp không tự sinh ra cũng không tự mất đi, chỉ chuyển từ chỗ ngồi này sang chỗ ngồi khác. Cũng như sau một thời gian không còn thấy cô cháu gái của bà hàng ăn ngồi trên cái ghế đẩu nữa, tôi hỏi, thì được biết cổ đã lấy chồng và đi nước ngoài (hình như là Đài Loan). Rồi sau một thời gian nữa, hàng ăn đó cũng biến mất. Tôi chưa kịp hỏi xem bà chủ hàng dọn đi đâu thì đã phải đi xa một thời gian. Hy vọng đến khi trở lại, quán café và cô em út xinh đẹp vẫn còn.
Du lịch, GO! - Khương Hà (theo Litviet)
Chủ Nhật, 24 tháng 6, 2012
Đến Cù Lao Chàm ăn bào ngư thơm giòn
Bào ngư luộc chấm muối tiêu chanh, thịt sẽ béo ngọt, ăn vào cảm giác lạ miệng, rất đặc biệt so với những loại hải sản khác. Bào ngư nướng trên lửa than đến khi miệng ốc sôi sùng sục, bốc mùi thơm lựng...
Đến Cù Lao Chàm (Hội An, Quảng Nam) được thưởng thức bào ngư tươi rói mới bắt về ngay trên bãi biển lồng lộng gió thì không có gì tuyệt bằng.
Bào ngư là một loại ốc cực hiếm, được biết đến với nhiều tên gọi như ốc cửu không (do có 9 lỗ trống) hay hải nhĩ (do có hình dạng giống cái tai). Loài ốc này bám vào những tảng đá ngầm san hô ở vùng nước biển có độ mặn cao, sóng gió vì vậy rất khó bị phát hiện. Để bắt được bào ngư, ngư dân có kinh nghiệm phải lặn sâu xuống biển và khó khăn lắm mới tách chúng ra khỏi những tảng đá.
Bào ngư mới bắt hay mua về nhìn con nào cũng có thân tròn dày, thịt đầy, mình đồng đều, chỉ cần rửa sạch đất cát, không cần ngâm xả chất thải như các loại ốc khác, đem nấu ăn ngay để còn giữ lại các vị thuốc có giá trị dinh dưỡng.
Cùng với ốc vú nàng, sò huyết, hải sâm... bào ngư được xem là món ăn quý có giá trị dinh dưỡng cao. Nó còn là vị thuốc độc đáo, có tác dụng chữa nhiều bệnh như sáng mắt, trị ho, tăng cường sinh lực...
Thịt bào ngư giòn, có mùi vị thơm. Các món từ bào ngư nếu biết cách kết hợp với các gia vị sẽ tạo nên những món ăn vô cùng hấp dẫn mà không loại hải sản nào sánh được.
Bào ngư tươi có thể chế biến thành nhiều món ăn như luộc, hấp, xào tùy theo từng khẩu vị của thực khách. Nhiều người ưa món bào ngư luộc với gừng. Để bề mặt thịt bào ngư sau khi luộc không bị rút lại và xuất hiện các vết nứt phải bỏ bào ngư vào nồi khi nước gừng hơi nóng. Bào ngư luộc chấm muối tiêu chanh, thịt sẽ béo ngọt, ăn vào cảm giác lạ miệng, rất đặc biệt so với những loại hải sản khác.
Dân ghiền bào ngư không thể bỏ qua món bào ngư nướng. Gừng, tỏi băm vắt nước hòa với nước mắm, đường và tiêu làm nước xốt. Cho hỗn hợp này vào từng con bào ngư ướp khoảng mươi phút, sau đó nướng trên lửa than đến khi miệng ốc sôi sùng sục, bốc mùi thơm lựng thì rưới thêm nước xốt. Và chỉ chờ khoảng dăm phút cho nước xốt ngấm đều vào thịt bào ngư là có thể mang xuống bày ra đĩa thưởng thức.
Ngoài ra, có thể xào bào ngư với nấm. Trước khi xào phải chần bào ngư qua nước sôi có pha rượu và gừng xắt lát. Xào hành tây cho thơm, cho bào ngư vào đảo đều, lửa lớn, nêm giấm, muối, đường. Trút nấm xào tiếp. Cuối cùng là cho những lát gừng cắt sợi vào.
Kỳ công hơn là món bao ngư hầm gà. Đặt bào ngư vào nồi, sắp từng miếng thịt gà, tiếp theo là hành lá, gia vị vừa ăn và cho nước luộc gà vào. Bắt đầu hầm lửa nhỏ liu riu đến khi nào bào ngư mềm thì được. Trong lúc nấu thỉnh thoảng nên kiểm tra nước, nếu nước cạn thì thêm vào. Cuối cùng dùng bột năng pha nước cho vào để tạo độ sánh.
Nếu có dịp đến với đảo Cù Lao Chàm, bạn đừng bỏ qua các món đặc sản chế biến từ bào ngư. Nếu đi về trong ngày du khách cũng có thể tìm mua bào ngư - món đặc sản ngon nhất của Cù Lao Chàm - để làm quà biếu cho người thân nơi đất liền.
Du lịch, GO! - Theo TTO
Đến Cù Lao Chàm (Hội An, Quảng Nam) được thưởng thức bào ngư tươi rói mới bắt về ngay trên bãi biển lồng lộng gió thì không có gì tuyệt bằng.
Bào ngư là một loại ốc cực hiếm, được biết đến với nhiều tên gọi như ốc cửu không (do có 9 lỗ trống) hay hải nhĩ (do có hình dạng giống cái tai). Loài ốc này bám vào những tảng đá ngầm san hô ở vùng nước biển có độ mặn cao, sóng gió vì vậy rất khó bị phát hiện. Để bắt được bào ngư, ngư dân có kinh nghiệm phải lặn sâu xuống biển và khó khăn lắm mới tách chúng ra khỏi những tảng đá.
Bào ngư mới bắt hay mua về nhìn con nào cũng có thân tròn dày, thịt đầy, mình đồng đều, chỉ cần rửa sạch đất cát, không cần ngâm xả chất thải như các loại ốc khác, đem nấu ăn ngay để còn giữ lại các vị thuốc có giá trị dinh dưỡng.
Cùng với ốc vú nàng, sò huyết, hải sâm... bào ngư được xem là món ăn quý có giá trị dinh dưỡng cao. Nó còn là vị thuốc độc đáo, có tác dụng chữa nhiều bệnh như sáng mắt, trị ho, tăng cường sinh lực...
Thịt bào ngư giòn, có mùi vị thơm. Các món từ bào ngư nếu biết cách kết hợp với các gia vị sẽ tạo nên những món ăn vô cùng hấp dẫn mà không loại hải sản nào sánh được.
Bào ngư tươi có thể chế biến thành nhiều món ăn như luộc, hấp, xào tùy theo từng khẩu vị của thực khách. Nhiều người ưa món bào ngư luộc với gừng. Để bề mặt thịt bào ngư sau khi luộc không bị rút lại và xuất hiện các vết nứt phải bỏ bào ngư vào nồi khi nước gừng hơi nóng. Bào ngư luộc chấm muối tiêu chanh, thịt sẽ béo ngọt, ăn vào cảm giác lạ miệng, rất đặc biệt so với những loại hải sản khác.
Dân ghiền bào ngư không thể bỏ qua món bào ngư nướng. Gừng, tỏi băm vắt nước hòa với nước mắm, đường và tiêu làm nước xốt. Cho hỗn hợp này vào từng con bào ngư ướp khoảng mươi phút, sau đó nướng trên lửa than đến khi miệng ốc sôi sùng sục, bốc mùi thơm lựng thì rưới thêm nước xốt. Và chỉ chờ khoảng dăm phút cho nước xốt ngấm đều vào thịt bào ngư là có thể mang xuống bày ra đĩa thưởng thức.
Ngoài ra, có thể xào bào ngư với nấm. Trước khi xào phải chần bào ngư qua nước sôi có pha rượu và gừng xắt lát. Xào hành tây cho thơm, cho bào ngư vào đảo đều, lửa lớn, nêm giấm, muối, đường. Trút nấm xào tiếp. Cuối cùng là cho những lát gừng cắt sợi vào.
Kỳ công hơn là món bao ngư hầm gà. Đặt bào ngư vào nồi, sắp từng miếng thịt gà, tiếp theo là hành lá, gia vị vừa ăn và cho nước luộc gà vào. Bắt đầu hầm lửa nhỏ liu riu đến khi nào bào ngư mềm thì được. Trong lúc nấu thỉnh thoảng nên kiểm tra nước, nếu nước cạn thì thêm vào. Cuối cùng dùng bột năng pha nước cho vào để tạo độ sánh.
Nếu có dịp đến với đảo Cù Lao Chàm, bạn đừng bỏ qua các món đặc sản chế biến từ bào ngư. Nếu đi về trong ngày du khách cũng có thể tìm mua bào ngư - món đặc sản ngon nhất của Cù Lao Chàm - để làm quà biếu cho người thân nơi đất liền.
Du lịch, GO! - Theo TTO
Thứ Năm, 21 tháng 6, 2012
Về Bảy Núi thưởng thức bánh canh bò viên
Ngon, lạ miệng, giá cả hợp với túi tiền giới bình dân là điều mà đa số thực khách khi ghé vào các quán ăn trong những lần đi qua Bảy Núi, An Giang.
Bánh canh bò viên là một trong những món ăn đặc sản của vùng sơn cước có nhiều cái ngon kết hợp lại.
Đầu tiên phải kể đến loại gạo thơm đặc biệt Neang Nhen, đặc sản vùng Bảy Núi được xay ra bột làm bánh canh theo công thức thủ công gia truyền.
Để có những cọng bánh canh đòi hỏi người bán phải qua nhiều công đoạn. Từ khuya, chủ quán phải thức dậy để xay gạo được ngâm trong đêm, xay xong giằng bột cho khô nước, kế tiếp là nhồi bột, cán, cắt mỏng tạo nên sợi bánh nhỏ trắng phau mềm, dai, mang đậm vị ngọt của thổ nhưỡng.
Kế đến là nồi nước súp hỗn hợp được ninh nhừ từ xương heo, xương gà, tôm khô, cá… những tinh túy trong nồi nước súp cho ta hương vị đậm đà, bổ dưỡng. Nhưng cái ngon nhất là bò viên. Bảy núi là xứ sở bò vỗ béo, món ngon từ thịt bò được chế biến thành bò viên đã khẳng định vị trí món ăn ngon ngọt mang phong cách địa phương vùng Bảy Núi này. Bò viên được cắt làm đôi có màu đỏ hồng nằm bên cạnh là những đoạn hành gọi mời hấp dẫn. Cho miếng bò viên nhẫn nha nhai, thịt vừa dòn dai, thơm ngọt đậm đà của bò sơn cước.
Húp muỗng nước súp nóng, mồ hôi tuôn ra, bao nhiêu mệt nhọc bụi đường tan biến. Bên cạnh đó, với lối tiếp khách bình dị, mến khách của chủ tiệm tạo thêm hương vị tô bánh canh bò viên càng thêm ngọt ngào.
Du lịch, GO! - Theo Phúc Lộc (Laodong)
Bánh canh bò viên là một trong những món ăn đặc sản của vùng sơn cước có nhiều cái ngon kết hợp lại.
Đầu tiên phải kể đến loại gạo thơm đặc biệt Neang Nhen, đặc sản vùng Bảy Núi được xay ra bột làm bánh canh theo công thức thủ công gia truyền.
Để có những cọng bánh canh đòi hỏi người bán phải qua nhiều công đoạn. Từ khuya, chủ quán phải thức dậy để xay gạo được ngâm trong đêm, xay xong giằng bột cho khô nước, kế tiếp là nhồi bột, cán, cắt mỏng tạo nên sợi bánh nhỏ trắng phau mềm, dai, mang đậm vị ngọt của thổ nhưỡng.
Kế đến là nồi nước súp hỗn hợp được ninh nhừ từ xương heo, xương gà, tôm khô, cá… những tinh túy trong nồi nước súp cho ta hương vị đậm đà, bổ dưỡng. Nhưng cái ngon nhất là bò viên. Bảy núi là xứ sở bò vỗ béo, món ngon từ thịt bò được chế biến thành bò viên đã khẳng định vị trí món ăn ngon ngọt mang phong cách địa phương vùng Bảy Núi này. Bò viên được cắt làm đôi có màu đỏ hồng nằm bên cạnh là những đoạn hành gọi mời hấp dẫn. Cho miếng bò viên nhẫn nha nhai, thịt vừa dòn dai, thơm ngọt đậm đà của bò sơn cước.
Húp muỗng nước súp nóng, mồ hôi tuôn ra, bao nhiêu mệt nhọc bụi đường tan biến. Bên cạnh đó, với lối tiếp khách bình dị, mến khách của chủ tiệm tạo thêm hương vị tô bánh canh bò viên càng thêm ngọt ngào.
Du lịch, GO! - Theo Phúc Lộc (Laodong)
Thứ Tư, 20 tháng 6, 2012
Phiêu diêu mùi vị Hội An
Trong hành trình khám phá xuyên Việt mùa hè này, chúng tôi đã có những trải nghiệm thú vị ở phố cổ Hội An với những điểm homestay ấm cúng, lớp học nấu ăn và thưởng thức nhiều món ngon dân dã.
< Sứa tươi rói ăn dai dai dòn dòn, trộn với nhiều loại gia vị đặc trưng của phố cổ mang lại hương vị ngon tuyệt.
Trong những kỷ niệm ấy, nổi trội hơn cả vẫn là nỗi niềm hoài nhớ ẩm thực dân dã đậm đà của phố cổ và một cảm giác phải gọi là... phiêu diêu khi thưởng thức những món ăn ấy ngay bên sông Thu Bồn.
Điều thú vị nhất trong hành trình khám phá ẩm thực đất Hội An là việc tham gia lớp học nấu ăn dành cho du khách.
< Món bánh ướt cuốn nhân tôm, thịt, rau sống - món dân dã của người phố cổ đầu tiên tôi tự tay làm trong khóa học nấu ăn dành cho du khách ở Hội An.
Tôi nhập hội cùng đoàn du khách Tây đi ghe ra nhà hàng giữa sông để dự lớp học nấu ăn. Trước khi bắt tay vào thực hành, cả lớp phải đi chợ mua một số nguyên vật liệu, gia vị nấu ăn.
Chúng tôi học nấu nhiều món ăn dân dã địa phương, có cả danh mục thức ăn bằng tiếng Anh cho khách Tây tham khảo: bánh xèo, gỏi hải sản trong thuyền thơm, chả giò tươi, cà tím kho tộ, bánh ướt cuốn nhân tôm thịt, học cách trang trí món ăn bằng cà chua và dưa leo...
< Bánh đập bán rong trên hè phố, muốn ăn phải đập cái bốp vào tay rồi mới ăn.
Sau lớp học nấu món ăn địa phương, tôi có thêm hứng thú dạo phố cổ khám phá thêm nhiều món ăn dân dã khác.
Món ăn dân dã ở đây vừa quen vừa lạ. Có món chưa từng nếm qua bao giờ như món bánh đập, muốn ăn phải đập cái bốp vào tay rồi mới ăn, rất ngộ. Có món đã từng biết nhưng Hội An có cách làm rất riêng khiến du khách phải nhớ như món chè bắp trộn sương sáo đen rất ngon bày bán ở gần Chùa Cầu.
Mà không chỉ riêng chè bắp, món chè nào của Hội An cũng trộn kèm sương sáo đen. Cả món chè hạt sen cũng được trộn với sương sáo, sương sa, nước đường nhìn rất hấp dẫn.
< Nước chè đậu ván dọn ra trong những chiếc cố bằng gáo dừa bày trên mẹt tre đậm chất dân dã.
Riêng tàu hũ bán rong trên đường phố ở phố cổ lại không ăn kèm nước cốt dừa. Món chí mà phủ (chè mè đen) từng là hàng rong phổ biến ban đêm trên đường phố Sài Gòn xưa kia bây giờ phải vào khu phố người Hoa trong Chợ Lớn mới có, còn ở Hội An vẫn được bán rong ngoài hè phố.
Thức uống của người phố cổ còn có nước chè đậu ván uống thay trà, mùi vị đặc biệt và rất mát. Nhất là cách dọn nước chè đậu ván trong một chiếc cốc gáo dừa bày trên tấm mẹt tre đậm chất dân dã, như đưa hồn du khách trở về cố hương...
.jpg)
< Món bánh vạc nổi tiếng ở Hội An với nhân tôm thịt, ăn kèm nước mắm trong veo.
Món bánh bao, bánh vạc nổi tiếng bày bán trong nhà cổ Quân Thắng ở Hội An ăn kèm nước chấm trong veo. Còn món hoành thánh nước kiểu Hội An cũng rất khác biệt. Lá hoành thánh bột mì để nguyên không cuốn thịt, thịt xá xíu xắt lát, thịt heo bằm nhuyễn vo viên trộn gia vị, bóp dẹp cho vào tô, thưởng thức thấy mùi vị cũng khá đặc biệt.
Riêng bánh khoai lang nướng là món đặc biệt tôi mới thấy lần đầu. Công thức bánh toàn nguyên liệu dân dã dễ kiếm: khoai lang nấu chín, tán nhuyễn, đậu xanh hấp chín, dừa cạo thành sợi, trộn lẫn chút đường và muối vào, nhồi vào khuôn, ép dẹp, rồi nướng trên than hồng 2 phút là thành món bánh khoai lang nướng thơm lừng, béo ngậy.
Và có một món đặc biệt chỉ ở Hội An mới có nhưng ít ai biết để tìm mà thưởng thức, đó là cháo cá cu. Cháo thật ngon và béo, nấu với đậu xanh, thêm ít rau ngò tươi, tiêu bột, thêm tí bia là hết ý. Đặc biệt, gỏi sứa ăn với bánh tráng giòn và nước chấm mắm ruốc Hội An. Sứa tươi rói ăn dai dai giòn giòn, trộn với nhiều loại gia vị đặc trưng của phố cổ mang lại hương vị ngon tuyệt.
.
< Bánh khoai lang vừa ép khuôn, chuẩn bị nướng trên bếp than hồng.
Ngồi ven sông Thu Bồn hoặc ven biển ăn mấy món này mới thấm hết mùi vị độc đáo của sản vật địa phương.
Một tuần dạo phố cổ thưởng thức ẩm thực dân dã, học nấu ăn món địa phương, thăm thú làng nghề... đối với tôi vẫn chỉ như bóng câu qua cửa. Vẫn thèm được trở về phố cổ ngồi bên sông Thu Bồn trong buổi hoàng hôn tím, ngắm chiều buông và đắm chìm trong hương vị ẩm thực đậm đà...
Du lịch, GO! - Theo Đặng Đẹp (TTO)
< Sứa tươi rói ăn dai dai dòn dòn, trộn với nhiều loại gia vị đặc trưng của phố cổ mang lại hương vị ngon tuyệt.
Trong những kỷ niệm ấy, nổi trội hơn cả vẫn là nỗi niềm hoài nhớ ẩm thực dân dã đậm đà của phố cổ và một cảm giác phải gọi là... phiêu diêu khi thưởng thức những món ăn ấy ngay bên sông Thu Bồn.
Điều thú vị nhất trong hành trình khám phá ẩm thực đất Hội An là việc tham gia lớp học nấu ăn dành cho du khách.
< Món bánh ướt cuốn nhân tôm, thịt, rau sống - món dân dã của người phố cổ đầu tiên tôi tự tay làm trong khóa học nấu ăn dành cho du khách ở Hội An.
Tôi nhập hội cùng đoàn du khách Tây đi ghe ra nhà hàng giữa sông để dự lớp học nấu ăn. Trước khi bắt tay vào thực hành, cả lớp phải đi chợ mua một số nguyên vật liệu, gia vị nấu ăn.
Chúng tôi học nấu nhiều món ăn dân dã địa phương, có cả danh mục thức ăn bằng tiếng Anh cho khách Tây tham khảo: bánh xèo, gỏi hải sản trong thuyền thơm, chả giò tươi, cà tím kho tộ, bánh ướt cuốn nhân tôm thịt, học cách trang trí món ăn bằng cà chua và dưa leo...
< Bánh đập bán rong trên hè phố, muốn ăn phải đập cái bốp vào tay rồi mới ăn.
Sau lớp học nấu món ăn địa phương, tôi có thêm hứng thú dạo phố cổ khám phá thêm nhiều món ăn dân dã khác.
Món ăn dân dã ở đây vừa quen vừa lạ. Có món chưa từng nếm qua bao giờ như món bánh đập, muốn ăn phải đập cái bốp vào tay rồi mới ăn, rất ngộ. Có món đã từng biết nhưng Hội An có cách làm rất riêng khiến du khách phải nhớ như món chè bắp trộn sương sáo đen rất ngon bày bán ở gần Chùa Cầu.
Mà không chỉ riêng chè bắp, món chè nào của Hội An cũng trộn kèm sương sáo đen. Cả món chè hạt sen cũng được trộn với sương sáo, sương sa, nước đường nhìn rất hấp dẫn.
< Nước chè đậu ván dọn ra trong những chiếc cố bằng gáo dừa bày trên mẹt tre đậm chất dân dã.
Riêng tàu hũ bán rong trên đường phố ở phố cổ lại không ăn kèm nước cốt dừa. Món chí mà phủ (chè mè đen) từng là hàng rong phổ biến ban đêm trên đường phố Sài Gòn xưa kia bây giờ phải vào khu phố người Hoa trong Chợ Lớn mới có, còn ở Hội An vẫn được bán rong ngoài hè phố.
Thức uống của người phố cổ còn có nước chè đậu ván uống thay trà, mùi vị đặc biệt và rất mát. Nhất là cách dọn nước chè đậu ván trong một chiếc cốc gáo dừa bày trên tấm mẹt tre đậm chất dân dã, như đưa hồn du khách trở về cố hương...
.jpg)
< Món bánh vạc nổi tiếng ở Hội An với nhân tôm thịt, ăn kèm nước mắm trong veo.
Món bánh bao, bánh vạc nổi tiếng bày bán trong nhà cổ Quân Thắng ở Hội An ăn kèm nước chấm trong veo. Còn món hoành thánh nước kiểu Hội An cũng rất khác biệt. Lá hoành thánh bột mì để nguyên không cuốn thịt, thịt xá xíu xắt lát, thịt heo bằm nhuyễn vo viên trộn gia vị, bóp dẹp cho vào tô, thưởng thức thấy mùi vị cũng khá đặc biệt.
Riêng bánh khoai lang nướng là món đặc biệt tôi mới thấy lần đầu. Công thức bánh toàn nguyên liệu dân dã dễ kiếm: khoai lang nấu chín, tán nhuyễn, đậu xanh hấp chín, dừa cạo thành sợi, trộn lẫn chút đường và muối vào, nhồi vào khuôn, ép dẹp, rồi nướng trên than hồng 2 phút là thành món bánh khoai lang nướng thơm lừng, béo ngậy.
.jpg)
.
< Bánh khoai lang vừa ép khuôn, chuẩn bị nướng trên bếp than hồng.
Ngồi ven sông Thu Bồn hoặc ven biển ăn mấy món này mới thấm hết mùi vị độc đáo của sản vật địa phương.
Một tuần dạo phố cổ thưởng thức ẩm thực dân dã, học nấu ăn món địa phương, thăm thú làng nghề... đối với tôi vẫn chỉ như bóng câu qua cửa. Vẫn thèm được trở về phố cổ ngồi bên sông Thu Bồn trong buổi hoàng hôn tím, ngắm chiều buông và đắm chìm trong hương vị ẩm thực đậm đà...
Du lịch, GO! - Theo Đặng Đẹp (TTO)
Thứ Hai, 18 tháng 6, 2012
Bánh tét Trà Cuôn
Năm nào cũng vâỵ, cứ sắp đến mùng 5-5 là chị Hai tôi lặn lội từ tuốt Trà Vinh đem lên cho gia đình em gái Ut vài đòn bánh tét để cúng tiết Đoan Ngọ.
Tôi ở Cần Thơ, nơi có bánh tét lá cẩm nổi tiếng cả nước, đặt một vài đòn thật ngon để cúng không có gì là khó nhưng nếu năm nào thiếu bánh của chị Hai cho, cả nhà tôi vẫn thấy thiếu một điều gì đó như là quen thuộc, như là thân yêu, như thiếu cả một góc trời quê và chút hơi ấm gia đình còn vương vấn.
Tuy là một miền quê nước mặn, phèn chua nhưng chúng tôi - những đứa trẻ đầu trần chân đất ngày nào- vẫn rất tự hào khi giới thiệu với bạn bè về Trà Vinh nơi có nhiều danh lam thắng cảnh và văn hóa ẩm thực. Bên cạnh những món ngon ăn rồi nhớ mãi như bún nước lèo, bánh giá, bánh canh Bến Có, bánh tét Trà Cuôn cũng phần nào giúp Trà Vinh “sánh vai” các địa phương khác trên “ bản đồ” ẩm thực của cả nước.
Trà Cuôn thuộc xã Kim Hòa, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh, cách thị xã Trà Vinh khoảng 10km theo hướng quốc lộ 53. Không hiểu tự khi nào, ngay tại chợ Trà Cuôn đã hình thành một xóm bánh tét khá “hoành tráng”. Khách du lịch, người đi công tác đến thị xã Trà Vinh, ai cũng cố công đi thêm 10km nữa để cho được những đòn bánh nóng về làm quà. Hương vị độc đáo của bánh tét Trà Cuôn cứ theo chân người tỏa về tứ xứ.
Đòn bánh tét ở Trà Cuôn to gần… gấp đôi bánh lá cẩm của Cần Thơ, thoạt nhìn nhiều người đã ngán nhưng chớ có vội chê. Khi cắt bánh ra, bạn sẽ không khỏi ngạc nhiên bởi những lớp bánh có màu sắc tươi ngon nằm ốp lấy nhau đều tròn theo thân bánh. Ngoài cùng là lớp nếp dẻo thơm mang màu xanh cẩm thạch được “biến tấu” từ nước cốt lá bù ngót. Giữa là phần nhân đậu xanh pha nước cốt dừa vàng ruộm vừa béo vừa bùi, trong cùng là lớp mỡ heo trong vắt xen với màu đỏ au của lòng đỏ hột vịt muối.
Để thưởng thức trọn vẹn cái ngon của bánh, bạn hãy cẩn trọng dùng dây lạt gói bánh, cắn một đầu rồi “cắt” khoanh bánh cho vừa ăn, cầm khoanh bánh hài hòa màu sắc ấy, mùi thơm thoang thoảng của nếp đã thúc giục bạn cắn thử một miếng. Vị ngọt của nếp, béo bùi của đâu xanh, đậm đà của hột vịt hòa quyện vào nhau sẽ làm bạn muốn cắn thêm một miếng nữa… Không chỉ có vậy, để làm nên “thương hiệu” nổi tiếng hàng chục năm qua, bánh tét Trà Cuôn còn được chia làm bốn loại: bánh nhân đậu, mỡ, thịt; nhân đậu, mỡ, thịt, lòng đỏ hột vịt; nhân tôm khô, lạp xưởng và nhân chuối dành cho thực khách ăn chay hoặc những ai “ngán” ăn đồ béo.
Chị Hai tôi kể, bánh tét Trà Cuôn là do một bà cụ người Khmer “khởi xướng”, cách đây khoảng 40 năm. Ban đầu là những đòn bánh được goí theo kiểu truyền thống nhưng do nếp ngon, lại thêm “nghệ thuật” nấu nướng khéo léo của cụ nên những đòn bánh cứ lan xa dần. Thấy cụ “mần” ăn được, bà con trong xóm mỗi người góp thêm một ý tưởng làm thành xóm bánh như bây giờ.
Ngày nay, dẫu có được thưởng thức nhiều món ngon vật lạ, với tôi bánh tét Trà Cuôn vẫn là nỗi nhớ “số một’ trong đời.
Du lịch, GO! - Theo Cầm Thi (BDL), ảnh internet
Tôi ở Cần Thơ, nơi có bánh tét lá cẩm nổi tiếng cả nước, đặt một vài đòn thật ngon để cúng không có gì là khó nhưng nếu năm nào thiếu bánh của chị Hai cho, cả nhà tôi vẫn thấy thiếu một điều gì đó như là quen thuộc, như là thân yêu, như thiếu cả một góc trời quê và chút hơi ấm gia đình còn vương vấn.
Tuy là một miền quê nước mặn, phèn chua nhưng chúng tôi - những đứa trẻ đầu trần chân đất ngày nào- vẫn rất tự hào khi giới thiệu với bạn bè về Trà Vinh nơi có nhiều danh lam thắng cảnh và văn hóa ẩm thực. Bên cạnh những món ngon ăn rồi nhớ mãi như bún nước lèo, bánh giá, bánh canh Bến Có, bánh tét Trà Cuôn cũng phần nào giúp Trà Vinh “sánh vai” các địa phương khác trên “ bản đồ” ẩm thực của cả nước.
Trà Cuôn thuộc xã Kim Hòa, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh, cách thị xã Trà Vinh khoảng 10km theo hướng quốc lộ 53. Không hiểu tự khi nào, ngay tại chợ Trà Cuôn đã hình thành một xóm bánh tét khá “hoành tráng”. Khách du lịch, người đi công tác đến thị xã Trà Vinh, ai cũng cố công đi thêm 10km nữa để cho được những đòn bánh nóng về làm quà. Hương vị độc đáo của bánh tét Trà Cuôn cứ theo chân người tỏa về tứ xứ.
Đòn bánh tét ở Trà Cuôn to gần… gấp đôi bánh lá cẩm của Cần Thơ, thoạt nhìn nhiều người đã ngán nhưng chớ có vội chê. Khi cắt bánh ra, bạn sẽ không khỏi ngạc nhiên bởi những lớp bánh có màu sắc tươi ngon nằm ốp lấy nhau đều tròn theo thân bánh. Ngoài cùng là lớp nếp dẻo thơm mang màu xanh cẩm thạch được “biến tấu” từ nước cốt lá bù ngót. Giữa là phần nhân đậu xanh pha nước cốt dừa vàng ruộm vừa béo vừa bùi, trong cùng là lớp mỡ heo trong vắt xen với màu đỏ au của lòng đỏ hột vịt muối.
Để thưởng thức trọn vẹn cái ngon của bánh, bạn hãy cẩn trọng dùng dây lạt gói bánh, cắn một đầu rồi “cắt” khoanh bánh cho vừa ăn, cầm khoanh bánh hài hòa màu sắc ấy, mùi thơm thoang thoảng của nếp đã thúc giục bạn cắn thử một miếng. Vị ngọt của nếp, béo bùi của đâu xanh, đậm đà của hột vịt hòa quyện vào nhau sẽ làm bạn muốn cắn thêm một miếng nữa… Không chỉ có vậy, để làm nên “thương hiệu” nổi tiếng hàng chục năm qua, bánh tét Trà Cuôn còn được chia làm bốn loại: bánh nhân đậu, mỡ, thịt; nhân đậu, mỡ, thịt, lòng đỏ hột vịt; nhân tôm khô, lạp xưởng và nhân chuối dành cho thực khách ăn chay hoặc những ai “ngán” ăn đồ béo.
Chị Hai tôi kể, bánh tét Trà Cuôn là do một bà cụ người Khmer “khởi xướng”, cách đây khoảng 40 năm. Ban đầu là những đòn bánh được goí theo kiểu truyền thống nhưng do nếp ngon, lại thêm “nghệ thuật” nấu nướng khéo léo của cụ nên những đòn bánh cứ lan xa dần. Thấy cụ “mần” ăn được, bà con trong xóm mỗi người góp thêm một ý tưởng làm thành xóm bánh như bây giờ.
Ngày nay, dẫu có được thưởng thức nhiều món ngon vật lạ, với tôi bánh tét Trà Cuôn vẫn là nỗi nhớ “số một’ trong đời.
Du lịch, GO! - Theo Cầm Thi (BDL), ảnh internet
Chủ Nhật, 17 tháng 6, 2012
Ăn gỏi cá nhệch Nga Sơn
Cuối tuần nắng lên sau đợt mưa dầm dề, chúng tôi rủ rê nhau đi vãn cảnh Tràng An (Ninh Bình)... Tràng An non nước hữu tình nhưng cả ngày lênh đênh sông nước cũng mệt, mọi người bảo nhau “chuyển tông”. Đang chưa biết đi đâu thì cậu bạn người Thanh Hóa cùng đi rủ qua Nga Liên (Nga Sơn, Thanh Hóa) ăn gỏi cá nhệch.
Từ TP Ninh Bình chạy xe khoảng 60km thì tới Nga Sơn, rồi lòng vòng, lắt léo hơn chục kilômet nữa mới đến Nga Liên. Bạn bảo gỏi cá nhệch Nga Sơn ăn ở Nga Liên là ngon nhất, đặc biệt ở quán “ông Bảo” như mọi người quen gọi.
Gỏi cá nhệch ở một số địa phương cũng có và đều được chế biến từ thịt cá nhệch đã làm sạch, lát mỏng trộn thính gạo thơm lừng theo bí quyết riêng của từng nhà hàng để khử tanh và tạo mùi thơm cho cá.
Nhưng đặc sắc nhất, tạo hương vị riêng cho gỏi cá nhệch ở mỗi vùng miền là các loại rau, lá ăn cùng, cũng như cách thức chế biến “chẻo” và thưởng thức gỏi. Gỏi cá ở Nga Sơn được ăn với rất nhiều loại rau, lá... mà có lẽ chỉ ăn ở Thanh Hóa mới thưởng thức được hết hương vị đặc trưng của món ăn như lộc nhòn, rau má...
Chế biến gỏi cá nhệch Nga Sơn là một nghệ thuật, mà ăn gỏi cá nhệch Nga Sơn cũng là một nghệ thuật tỉ mỉ không kém. Thấy mấy lữ khách ngơ ngác không biết dùng món thế nào, cô nhân viên quán tươi cười hướng dẫn tận tình.
Gỏi cá không cuốn bằng bánh đa nem mà lấy các loại lá ăn kèm để cuốn. Gỏi cũng không cuốn tròn như các loại gỏi, nem cuốn thông thường mà cuốn thành hình phễu và ăn cả miếng mới ngon. Đầu tiên lấy lá “sung sướng” (lá sung) thật to, lá mới, non đặt ở ngoài cùng. Nêm thêm một, hai lá lộc nhòn, một, hai lá từ bi hỉ xả (cúc tần) rồi ngổ ngáo (rau ngổ), mộng mơ (lá mơ), mùi tàu, đinh lăng, rau má, bạc hà... Ai thích vị nào thì nêm tùy ý. Sau đó cuốn tất cả các loại rau thành hình chiếc phễu, cho lượng cá nhệch vừa ăn vào, rưới chẻo lên trên và nêm vừa phải ớt gió tươi, hành củ tươi, riềng, sả. Ai ăn được mắm tôm thì rưới thêm một chút. Rồi lấy một miếng bánh đa nho nhỏ đậy cái phễu lại và phải ăn hết cả miếng.
Cảm nhận ban đầu là vị bùi, vị thơm, vị mát, vị cay của rau. Rồi đến vị ngọt, vị béo, bùi, ngậy của chẻo, vị mằn mặn vừa phải của mắm tôm, vị cay, nồng, thơm, nóng của riềng, của ớt, của sả. Thêm vị bánh đa bùi bùi giòn tan và cuối cùng là vị ngọt, dai mà giòn giòn của cá nhệch. Tất cả tan dần trong miệng... ngon không từ nào tả xiết... Nuốt miếng gỏi rồi mà dư vị vẫn còn đọng mãi...
Ăn gỏi cá nhệch ngon nhất là chẻo. Mà chẻo không ngon thì chẳng còn gì là gỏi cá nhệch. Chẻo làm từ những gì, làm như thế nào mà lại béo, ngậy, thơm, ngon đến vậy? Những người khách phương xa chẳng thể phân biệt được. Hỏi các nhân viên phục vụ, các cô chỉ cười rất hiền bảo đó là “bí quyết riêng của nhà hàng chúng em”... Ừ, phải giữ “bí kíp” riêng thì mới tạo ra được thương hiệu riêng chứ nhỉ...
Sau lần đầu tiên, mỗi lần thèm gỏi cá nhệch Nga Sơn mấy chị em lại rong ruổi vào tận Nga Liên ăn gỏi. Và bây giờ, nghĩ đến gỏi cá nhệch Nga Sơn lòng cứ bồi hồi...
Du lịch, GO! - Theo Trịnh Lan Hương (TTO), internet
Từ TP Ninh Bình chạy xe khoảng 60km thì tới Nga Sơn, rồi lòng vòng, lắt léo hơn chục kilômet nữa mới đến Nga Liên. Bạn bảo gỏi cá nhệch Nga Sơn ăn ở Nga Liên là ngon nhất, đặc biệt ở quán “ông Bảo” như mọi người quen gọi.
Gỏi cá nhệch ở một số địa phương cũng có và đều được chế biến từ thịt cá nhệch đã làm sạch, lát mỏng trộn thính gạo thơm lừng theo bí quyết riêng của từng nhà hàng để khử tanh và tạo mùi thơm cho cá.

Chế biến gỏi cá nhệch Nga Sơn là một nghệ thuật, mà ăn gỏi cá nhệch Nga Sơn cũng là một nghệ thuật tỉ mỉ không kém. Thấy mấy lữ khách ngơ ngác không biết dùng món thế nào, cô nhân viên quán tươi cười hướng dẫn tận tình.
Gỏi cá không cuốn bằng bánh đa nem mà lấy các loại lá ăn kèm để cuốn. Gỏi cũng không cuốn tròn như các loại gỏi, nem cuốn thông thường mà cuốn thành hình phễu và ăn cả miếng mới ngon. Đầu tiên lấy lá “sung sướng” (lá sung) thật to, lá mới, non đặt ở ngoài cùng. Nêm thêm một, hai lá lộc nhòn, một, hai lá từ bi hỉ xả (cúc tần) rồi ngổ ngáo (rau ngổ), mộng mơ (lá mơ), mùi tàu, đinh lăng, rau má, bạc hà... Ai thích vị nào thì nêm tùy ý. Sau đó cuốn tất cả các loại rau thành hình chiếc phễu, cho lượng cá nhệch vừa ăn vào, rưới chẻo lên trên và nêm vừa phải ớt gió tươi, hành củ tươi, riềng, sả. Ai ăn được mắm tôm thì rưới thêm một chút. Rồi lấy một miếng bánh đa nho nhỏ đậy cái phễu lại và phải ăn hết cả miếng.
Cảm nhận ban đầu là vị bùi, vị thơm, vị mát, vị cay của rau. Rồi đến vị ngọt, vị béo, bùi, ngậy của chẻo, vị mằn mặn vừa phải của mắm tôm, vị cay, nồng, thơm, nóng của riềng, của ớt, của sả. Thêm vị bánh đa bùi bùi giòn tan và cuối cùng là vị ngọt, dai mà giòn giòn của cá nhệch. Tất cả tan dần trong miệng... ngon không từ nào tả xiết... Nuốt miếng gỏi rồi mà dư vị vẫn còn đọng mãi...
Ăn gỏi cá nhệch ngon nhất là chẻo. Mà chẻo không ngon thì chẳng còn gì là gỏi cá nhệch. Chẻo làm từ những gì, làm như thế nào mà lại béo, ngậy, thơm, ngon đến vậy? Những người khách phương xa chẳng thể phân biệt được. Hỏi các nhân viên phục vụ, các cô chỉ cười rất hiền bảo đó là “bí quyết riêng của nhà hàng chúng em”... Ừ, phải giữ “bí kíp” riêng thì mới tạo ra được thương hiệu riêng chứ nhỉ...
Sau lần đầu tiên, mỗi lần thèm gỏi cá nhệch Nga Sơn mấy chị em lại rong ruổi vào tận Nga Liên ăn gỏi. Và bây giờ, nghĩ đến gỏi cá nhệch Nga Sơn lòng cứ bồi hồi...
Du lịch, GO! - Theo Trịnh Lan Hương (TTO), internet
Thứ Bảy, 16 tháng 6, 2012
Mùa săn chuột đồng
Vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long khi mùa lũ về, phần lớn đồng ruộng, bờ vùng, bờ thửa, kinh thủy lợi… đều bị ngập nước. Chuột cũng tự di chuyển đến một nơi mới để định cư. Nông dân vốn không ưa lũ chuột phá hoại mùa màng, nhưng lại rất khoái thịt chuột. Đây là cơ hội tốt để săn chuột đồng…
Ngoài đồng ruộng, khi lúa chín vàng, chuột tung ra cắn phá dữ dội. Khi bị thuốc hoặc bị bẫy, chuột chỉ tiêu hao một ít. Để diệt trừ chuột, nhiều người sử dụng các biện pháp để tiêu diệt như: bẫy rập, đánh bã thuốc, ví cù khi gặt lúa, xông khói vào hang...
Ngoài cửa hang chính người ta đặt rọ, bao nhiêu chuột trong hang bị ngộp khói phải chui vô rọ. Đó là những cách bắt chuột vào mùa khô.
Ở Đồng Tháp Mười và khu Tứ giác Long Xuyên, khi mùa lũ về, ngoài biện pháp khắc phục hậu quả lũ lụt, nông dân còn tham gia sắm sửa “đồ nghề” để săn bắt chuột đồng. Vũ khí săn bắt chuột thường được người dân địa phương tự tạo như: súng săn chuột tự chế, bằng gỗ có kích cỡ giống súng trường, thay cho đạn là mũi tên bằng thép cứng.
Dây làm bằng loại thun co giãn. Súng săn chuột có tầm đi nhanh, trong khoảng cách từ 5-6 m rất chính xác. Còn chĩa đâm chuột được làm bằng những thanh sắt (thép) dài từ 1,5-2 tấc, có một đầu nhọn, đầu kia được tra vào một đoạn tre hoặc cây tầm vông dài khoảng 4-5 m…
Sau khi chuẩn bị sẵn sàng súng săn, chĩa đâm, phương tiện xuồng, còn có thêm đàn chó… Mục tiêu đã chọn là những lùm cây trên đồng nước, đàn chó đi đầu uy hiếp không cho chuột xuống nước ém quân để làm mồi cho những mũi tên, mũi chĩa của người săn. Tiếp tục truy kích hết lùm cây này đến lùm cây khác.
Kết quả sau buổi săn chuột, mỗi người bắt được bình quân cũng vài ba chục con chuột đồng. Đây là những món ăn ngon miệng và cũng là nguồn thu nhập phụ của nhiều gia đình lúc nông nhàn.
Hai em Trần Văn Phú và Trần Văn Lợi, xã Hòa Bình, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp, cho biết: “… Săn chuột đồng mùa lũ mê lắm. Hai anh em tôi đi một buổi kiếm không dưới 50 con chuột, vừa cải thiện được bữa ăn hằng ngày, vừa có nguồn kinh tế phụ đáng kể cho gia đình”.
Anh Lê Thành Tâm, xã Tân Mỹ, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp, bộc bạch: “Tôi có hai đứa con trai lớn, với hai cây chĩa, một súng săn và hai con chó mực. Đi săn theo những lùm cây, bụi cỏ, gò cao… sau khoảng 4 giờ, chúng tôi bắt gần 70 con. Giá bán chuột đồng cho thương lái dao động trên dưới 40.000 đồng/kg. Nhờ nghề săn chuột đồng mà người dân vùng sâu Đồng Tháp Mười có nguồn thu nhập đáng kể…".
Bên cạnh việc săn chuột bằng súng, chĩa đâm, nông dân vùng ĐBSCL còn áp dụng phương pháp chất chà và đặt chít bắt chuột, hiệu quả mà lại an toàn cho người. Với cách này, nông dân thu gom rất nhiều chuột, vừa góp phần bảo vệ mùa màng, vừa cải thiện bữa ăn cho gia đình và cũng là nguồn thu nhập phụ đáng kể cho các nông hộ...
Cây chít bắt chuột là một cái hom dài khoảng 5 tấc, đặt ngay miệng hang. Sau đó, đổ nước vào hang, chuột bị ngộp nước chạy ra khỏi miệng hang và chui ngay vào cây chít. Người đặt chít tha hồ bắt chuột.
Cây chít gồm thân hom được giới hạn bởi 2 vòng sắt của lon sữa bò có khoảng cách gần 2 tấc. Lon sữa được cắt một vòng sắt dưới đáy làm nòng, một phần thân lon được cắt thành những hình tam giác làm miệng hom.
Từ miệng đến chân cách 1,7 tấc. Thân hom được kết bằng những thanh tre vuốt nhọn đầu để cắm sâu vào đất dài hơn 1,5 tấc nhỏ dần về phía đầu hom. Đầu hom được cột túm chặt bằng dây ni-lông không cho chuột thoát ra ngoài. Khi chuột vào bẫy, mở dây để chuột chạy vào bao để bắt sống.
Người chất chà bắt chuột thường chọn một số nhánh chà bằng cây tạp, đọt tre, trúc... buộc lại từng bó, mỗi bó độ chừng một ôm người, chiều dài tuỳ loại chà khoảng từ 1-2 m, với số lượng hơn một chục bó...
Các bó chà được chất đống lại quanh gốc dừa, gốc chuối, bờ kinh và nhất là gần những nơi chuột thường qua lại kiếm ăn. Diện tích để chất chà khoảng 20 m2. Khi chất xong, rải vào một ít lúa, gạo, bắp, đậu, khoai... để nhử chuột, rồi dùng rơm, tàu dừa, cỏ khô... phủ lên để tạo hơi ấm cho chuột vào làm ổ.
Anh Trần Văn Tươi, ở xã Phú Cường, huyện Tam Nông, vui vẻ bộc bạch, mỗi lần dỡ chà, gia đình anh bắt cũng được 20-30 con. Có lần dỡ trúng kiếm cũng được hơn 50 con, bán được cả trăm ngàn đồng.
Hiện nay, có rất nhiều thương lái đến tại đồng để thu mua chuột đem đi tiêu thụ tại các chợ huyện, thị xã, thành phố… Anh Hoàng ở thị trấn Tràm Chim, huyện Tam Nông, có hơn 7 năm trong nghề mua bán chuột đồng, cho biết, thông thường, vào đầu tháng 4 âm lịch là anh bắt đầu đến các cánh đồng của huyện Thanh Bình, Tam Nông, Hồng Ngự, Tân Hồng, Tháp Mười, Cao Lãnh… để thu mua chuột đồng. Sau đó, chở đến các chợ huyện, thị xã, thành phố của An Giang, Hậu Giang, Đồng Tháp… để tiêu thụ. Bình quân mỗi ngày, anh mua và bán từ 50-60 kg chuột đồng. Đến cuối tháng 8 âm lịch hằng năm là hết mùa mua bán chuột đồng.
Anh Nguyễn Văn Minh, xã Phú Thọ, huyện Tam Nông, cho biết, thịt chuột đồng thơm ngon nhất là vào cuối vụ hè thu, nên chuột đồng tiêu thụ rất mạnh và bán rất có giá. Các món ăn được chế biến từ thịt chuột đồng như: chuột xào củ kiệu, luộc cơm mẻ, chuột chiên - nướng - khìa, chuột quay lu… rất thơm ngon.
Nghề săn bắt chuột và mua bán chuột đồng đang giúp nhiều nông dân vùng đồng bằng châu thổ Cửu Long có thêm thu nhập, ổn định cuộc sống lúc nông nhàn; đồng thời giải quyết được việc làm cho người lao động nông thôn, góp phần tiêu diệt loài chuột bảo vệ mùa màng…
Du lịch, GO! - Theo Trọng Trung (Cà Mau Online)
Ngoài đồng ruộng, khi lúa chín vàng, chuột tung ra cắn phá dữ dội. Khi bị thuốc hoặc bị bẫy, chuột chỉ tiêu hao một ít. Để diệt trừ chuột, nhiều người sử dụng các biện pháp để tiêu diệt như: bẫy rập, đánh bã thuốc, ví cù khi gặt lúa, xông khói vào hang...
Ngoài cửa hang chính người ta đặt rọ, bao nhiêu chuột trong hang bị ngộp khói phải chui vô rọ. Đó là những cách bắt chuột vào mùa khô.
Ở Đồng Tháp Mười và khu Tứ giác Long Xuyên, khi mùa lũ về, ngoài biện pháp khắc phục hậu quả lũ lụt, nông dân còn tham gia sắm sửa “đồ nghề” để săn bắt chuột đồng. Vũ khí săn bắt chuột thường được người dân địa phương tự tạo như: súng săn chuột tự chế, bằng gỗ có kích cỡ giống súng trường, thay cho đạn là mũi tên bằng thép cứng.
Dây làm bằng loại thun co giãn. Súng săn chuột có tầm đi nhanh, trong khoảng cách từ 5-6 m rất chính xác. Còn chĩa đâm chuột được làm bằng những thanh sắt (thép) dài từ 1,5-2 tấc, có một đầu nhọn, đầu kia được tra vào một đoạn tre hoặc cây tầm vông dài khoảng 4-5 m…
Sau khi chuẩn bị sẵn sàng súng săn, chĩa đâm, phương tiện xuồng, còn có thêm đàn chó… Mục tiêu đã chọn là những lùm cây trên đồng nước, đàn chó đi đầu uy hiếp không cho chuột xuống nước ém quân để làm mồi cho những mũi tên, mũi chĩa của người săn. Tiếp tục truy kích hết lùm cây này đến lùm cây khác.
Kết quả sau buổi săn chuột, mỗi người bắt được bình quân cũng vài ba chục con chuột đồng. Đây là những món ăn ngon miệng và cũng là nguồn thu nhập phụ của nhiều gia đình lúc nông nhàn.
Hai em Trần Văn Phú và Trần Văn Lợi, xã Hòa Bình, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp, cho biết: “… Săn chuột đồng mùa lũ mê lắm. Hai anh em tôi đi một buổi kiếm không dưới 50 con chuột, vừa cải thiện được bữa ăn hằng ngày, vừa có nguồn kinh tế phụ đáng kể cho gia đình”.
Anh Lê Thành Tâm, xã Tân Mỹ, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp, bộc bạch: “Tôi có hai đứa con trai lớn, với hai cây chĩa, một súng săn và hai con chó mực. Đi săn theo những lùm cây, bụi cỏ, gò cao… sau khoảng 4 giờ, chúng tôi bắt gần 70 con. Giá bán chuột đồng cho thương lái dao động trên dưới 40.000 đồng/kg. Nhờ nghề săn chuột đồng mà người dân vùng sâu Đồng Tháp Mười có nguồn thu nhập đáng kể…".
Bên cạnh việc săn chuột bằng súng, chĩa đâm, nông dân vùng ĐBSCL còn áp dụng phương pháp chất chà và đặt chít bắt chuột, hiệu quả mà lại an toàn cho người. Với cách này, nông dân thu gom rất nhiều chuột, vừa góp phần bảo vệ mùa màng, vừa cải thiện bữa ăn cho gia đình và cũng là nguồn thu nhập phụ đáng kể cho các nông hộ...
Cây chít bắt chuột là một cái hom dài khoảng 5 tấc, đặt ngay miệng hang. Sau đó, đổ nước vào hang, chuột bị ngộp nước chạy ra khỏi miệng hang và chui ngay vào cây chít. Người đặt chít tha hồ bắt chuột.
Cây chít gồm thân hom được giới hạn bởi 2 vòng sắt của lon sữa bò có khoảng cách gần 2 tấc. Lon sữa được cắt một vòng sắt dưới đáy làm nòng, một phần thân lon được cắt thành những hình tam giác làm miệng hom.
Từ miệng đến chân cách 1,7 tấc. Thân hom được kết bằng những thanh tre vuốt nhọn đầu để cắm sâu vào đất dài hơn 1,5 tấc nhỏ dần về phía đầu hom. Đầu hom được cột túm chặt bằng dây ni-lông không cho chuột thoát ra ngoài. Khi chuột vào bẫy, mở dây để chuột chạy vào bao để bắt sống.
Người chất chà bắt chuột thường chọn một số nhánh chà bằng cây tạp, đọt tre, trúc... buộc lại từng bó, mỗi bó độ chừng một ôm người, chiều dài tuỳ loại chà khoảng từ 1-2 m, với số lượng hơn một chục bó...
Các bó chà được chất đống lại quanh gốc dừa, gốc chuối, bờ kinh và nhất là gần những nơi chuột thường qua lại kiếm ăn. Diện tích để chất chà khoảng 20 m2. Khi chất xong, rải vào một ít lúa, gạo, bắp, đậu, khoai... để nhử chuột, rồi dùng rơm, tàu dừa, cỏ khô... phủ lên để tạo hơi ấm cho chuột vào làm ổ.
Anh Trần Văn Tươi, ở xã Phú Cường, huyện Tam Nông, vui vẻ bộc bạch, mỗi lần dỡ chà, gia đình anh bắt cũng được 20-30 con. Có lần dỡ trúng kiếm cũng được hơn 50 con, bán được cả trăm ngàn đồng.
Hiện nay, có rất nhiều thương lái đến tại đồng để thu mua chuột đem đi tiêu thụ tại các chợ huyện, thị xã, thành phố… Anh Hoàng ở thị trấn Tràm Chim, huyện Tam Nông, có hơn 7 năm trong nghề mua bán chuột đồng, cho biết, thông thường, vào đầu tháng 4 âm lịch là anh bắt đầu đến các cánh đồng của huyện Thanh Bình, Tam Nông, Hồng Ngự, Tân Hồng, Tháp Mười, Cao Lãnh… để thu mua chuột đồng. Sau đó, chở đến các chợ huyện, thị xã, thành phố của An Giang, Hậu Giang, Đồng Tháp… để tiêu thụ. Bình quân mỗi ngày, anh mua và bán từ 50-60 kg chuột đồng. Đến cuối tháng 8 âm lịch hằng năm là hết mùa mua bán chuột đồng.
Anh Nguyễn Văn Minh, xã Phú Thọ, huyện Tam Nông, cho biết, thịt chuột đồng thơm ngon nhất là vào cuối vụ hè thu, nên chuột đồng tiêu thụ rất mạnh và bán rất có giá. Các món ăn được chế biến từ thịt chuột đồng như: chuột xào củ kiệu, luộc cơm mẻ, chuột chiên - nướng - khìa, chuột quay lu… rất thơm ngon.
Nghề săn bắt chuột và mua bán chuột đồng đang giúp nhiều nông dân vùng đồng bằng châu thổ Cửu Long có thêm thu nhập, ổn định cuộc sống lúc nông nhàn; đồng thời giải quyết được việc làm cho người lao động nông thôn, góp phần tiêu diệt loài chuột bảo vệ mùa màng…
Du lịch, GO! - Theo Trọng Trung (Cà Mau Online)
Thứ Sáu, 15 tháng 6, 2012
Hủ tiếu gõ Sài Thành
Với những sinh viên ít tiền hay người lao động nghèo thì một tô hủ tiếu thêm cục xương có dính ít thịt giá 8.000-10.000 đồng cũng đủ cho một bữa no.
Nếu ai đã từng ở Sài Gòn và hay thức đêm chắc chắn sẽ không thể quên được những âm thanh “lóc cóc lóc cóc…” quen thuộc vào lúc nửa đêm hay gần về sáng. Thứ âm thanh đó cứ len lỏi trong từng con hẻm nhỏ, những ngóc ngách của các khu phố. Theo sau đó là những tiếng xe đạp lạch cạch của người bán hủ tiếu gõ.
Âm thanh của xe hủ tiếu được vang lên từ hai thanh gỗ hoặc kim loại đập vào nhau. Tiếng gõ hủ tiếu rất riêng, không lẫn với những tiếng xèng xẹt…xèng xẹt…” của những người bán phục linh, sương sáo, hay tiếng “lét két…lét két…” của những chàng trai làm nghề tẩm quất.
Bấy lâu, không ít người cứ bảo món ăn này xuất xứ từ đất nước Chùa Tháp láng giềng vì thường nghe "hủ tíu Nam Vang". Kỳ thực, vậy mà... chẳng phải vậy! Cái tên hủ tíu/hủ tiếu, vốn bắt nguồn dựa trên nền của món ăn mà người Tiều (Triều Châu) gọi là cổ chéo (hủ tiếu), nghĩa gốc: bánh sợi. Sợi bánh hủ tiếu thường được sấy khô, lúc chuẩn bị ăn mới chần nước sôi và chần mỡ hành phi cho mềm, thơm, bùi, béo. Và cũng tương tự phở cực kỳ phổ biến ở Bắc Bộ, món hủ tiếu ngoại lai dần được Việt hóa theo bao cung cách khác nhau để trở thành đặc sản quen thuộc "đậm đà tính dân tộc" trên dải đất cong cong hình chữ S.
Đa số những người ăn hủ tiếu là giải quyết cơn đói bụng tạm thời trong lúc gấp hoặc những người đi chơi, đi làm về khuya tìm chút gì lót dạ cho dễ ngủ khi những hàng quán khác đã dọn hết. Ít ai lại chọn hủ tiếu gõ làm bữa ăn chính. Nó trở thành một thói quen ăn đêm của nhiều người vì vừa đơn giản, vừa vừa bình dân lại phù hợp với mọi túi tiền
Vào những năm đầu thế kỷ 21, giá một tô hủ tiếu gõ chỉ 2.000 đồng, sau này vì giá cả mọi thứ đều lên thì hủ tiếu gõ cũng tăng lên 5.000 đồng. Cho đến thời điểm hiện tại, thì giá của nó cũng vẫn thuộc diện bình dân nhất. Một tô đủ chất có thêm cục xương có dính ít thịt mà chúng ta vẫn hay gọi là xí quách thì giá sẽ là 8.000 -10.000đ. Với những sinh viên ít tiền hay những người lao động nghèo thời bão giá thì đó cũng là đủ cho một bữa no.
Đã có thời tôi trọ cạnh một gia đình làm nghề bán hủ tiếu gõ quê ở Quảng Ngãi. Cuộc sống của họ cũng đều đều như tiếng gõ rao của xe hủ tiếu. Một cái bàn nhỏ, dăm ba chiếc ghế con đặt trên vỉa hè, mấy chồng bát đũa Trung Quốc… Công việc của họ ngày nào cũng vậy. 12h vợ chồng chị đẩy quán ra bán ở con hẻm đầu ngõ. 19h thì dọn đến khu chợ rau bán đến quá nửa đêm. Chị vợ thì ngồi một chỗ chuẩn bị món cho khách còn anh chồng chạy khắp ngõ ngách gõ cốc cốc để tiếp thị. Bát hủ tiếu khi đến tay khách luôn đảm bảo nóng hổi.
Anh chồng kể, tính trung bình, mỗi ngày có khi phải đi bộ hàng chục cây số để mời khách. Hồi mới vào thành phố, thỉnh thoảng vẫn bị lạc đường. Có lần, nghe khách gọi hủ tiếu, mừng quá, chỉ biết chạy, tới khi bưng đến thì quên nhà. Tìm mãi, khi bát hủ tiếu lạnh ngắt, đầy cả nước mưa mới gặp được khách. Định bụng bê về đổi bát khác thì vị khách gọi giật lại: cùng cảnh với nhau cả mà, nguội một chút nhưng no là được anh ạ. Đến lúc vị khách ăn xong lấy tiền anh mới nhìn kỹ thì cũng phận “dép rách, áo vá” như mình cả. Cầm đồng tiền mà cứ thấy không dám nhìn thẳng vào mặt nhau.
Cùng họ hàng với hủ tiếu gõ còn có một loại hủ tiếu nữa mà chỉ nghe qua đã đủ để nói lên nhiều điều xoay quanh cái chữ nghèo, đó chính là Hủ tiếu thất nghiệp. Đây là loại hình gắn liền với Dân Nam "bản địa". Chẳng hạn, trong một xóm nghèo của người miền Nam, một gia đình nào đó đang "thất nghiệp" và nhận thấy đầu hẻm đang còn trống bèn bày ra đó vài cái bàn, cái ghế, đặt thùng "nước lèo" ít "phụ tùng" rồi "nổi lửa" bán hủ tiếu "thất nghiệp" với chất lượng và giá cả cũng tương đương với hủ tiếu gõ.
Người bán hủ tiếu thất nghiệp và người ăn hủ tiếu thất nghiệp thường là người cùng xóm quen thân lâu đời, do vậy khi bị "kẹt"chưa có việc làm có thể ra ăn rồi "ký sổ" khi nào đi làm có tiền sẽ "thanh toán." Có lẽ chính vì vậy mà người Nam gọi hủ tiếu đầu hẻm là hủ tiếu "thất nghiệp”. Suy cho cùng thì dù có gọi tên nó như thế nào, hủ tiếu gõ hay hủ tiếu thất nghiệp thì đó cũng là thứ thuộc về: những góc khuất trong lòng thành phố.
Du lịch, GO! - Theo Vân Thiên (Nguoiduatin), internet
Nếu ai đã từng ở Sài Gòn và hay thức đêm chắc chắn sẽ không thể quên được những âm thanh “lóc cóc lóc cóc…” quen thuộc vào lúc nửa đêm hay gần về sáng. Thứ âm thanh đó cứ len lỏi trong từng con hẻm nhỏ, những ngóc ngách của các khu phố. Theo sau đó là những tiếng xe đạp lạch cạch của người bán hủ tiếu gõ.
Âm thanh của xe hủ tiếu được vang lên từ hai thanh gỗ hoặc kim loại đập vào nhau. Tiếng gõ hủ tiếu rất riêng, không lẫn với những tiếng xèng xẹt…xèng xẹt…” của những người bán phục linh, sương sáo, hay tiếng “lét két…lét két…” của những chàng trai làm nghề tẩm quất.
Bấy lâu, không ít người cứ bảo món ăn này xuất xứ từ đất nước Chùa Tháp láng giềng vì thường nghe "hủ tíu Nam Vang". Kỳ thực, vậy mà... chẳng phải vậy! Cái tên hủ tíu/hủ tiếu, vốn bắt nguồn dựa trên nền của món ăn mà người Tiều (Triều Châu) gọi là cổ chéo (hủ tiếu), nghĩa gốc: bánh sợi. Sợi bánh hủ tiếu thường được sấy khô, lúc chuẩn bị ăn mới chần nước sôi và chần mỡ hành phi cho mềm, thơm, bùi, béo. Và cũng tương tự phở cực kỳ phổ biến ở Bắc Bộ, món hủ tiếu ngoại lai dần được Việt hóa theo bao cung cách khác nhau để trở thành đặc sản quen thuộc "đậm đà tính dân tộc" trên dải đất cong cong hình chữ S.
Đa số những người ăn hủ tiếu là giải quyết cơn đói bụng tạm thời trong lúc gấp hoặc những người đi chơi, đi làm về khuya tìm chút gì lót dạ cho dễ ngủ khi những hàng quán khác đã dọn hết. Ít ai lại chọn hủ tiếu gõ làm bữa ăn chính. Nó trở thành một thói quen ăn đêm của nhiều người vì vừa đơn giản, vừa vừa bình dân lại phù hợp với mọi túi tiền
Vào những năm đầu thế kỷ 21, giá một tô hủ tiếu gõ chỉ 2.000 đồng, sau này vì giá cả mọi thứ đều lên thì hủ tiếu gõ cũng tăng lên 5.000 đồng. Cho đến thời điểm hiện tại, thì giá của nó cũng vẫn thuộc diện bình dân nhất. Một tô đủ chất có thêm cục xương có dính ít thịt mà chúng ta vẫn hay gọi là xí quách thì giá sẽ là 8.000 -10.000đ. Với những sinh viên ít tiền hay những người lao động nghèo thời bão giá thì đó cũng là đủ cho một bữa no.
Đã có thời tôi trọ cạnh một gia đình làm nghề bán hủ tiếu gõ quê ở Quảng Ngãi. Cuộc sống của họ cũng đều đều như tiếng gõ rao của xe hủ tiếu. Một cái bàn nhỏ, dăm ba chiếc ghế con đặt trên vỉa hè, mấy chồng bát đũa Trung Quốc… Công việc của họ ngày nào cũng vậy. 12h vợ chồng chị đẩy quán ra bán ở con hẻm đầu ngõ. 19h thì dọn đến khu chợ rau bán đến quá nửa đêm. Chị vợ thì ngồi một chỗ chuẩn bị món cho khách còn anh chồng chạy khắp ngõ ngách gõ cốc cốc để tiếp thị. Bát hủ tiếu khi đến tay khách luôn đảm bảo nóng hổi.
Anh chồng kể, tính trung bình, mỗi ngày có khi phải đi bộ hàng chục cây số để mời khách. Hồi mới vào thành phố, thỉnh thoảng vẫn bị lạc đường. Có lần, nghe khách gọi hủ tiếu, mừng quá, chỉ biết chạy, tới khi bưng đến thì quên nhà. Tìm mãi, khi bát hủ tiếu lạnh ngắt, đầy cả nước mưa mới gặp được khách. Định bụng bê về đổi bát khác thì vị khách gọi giật lại: cùng cảnh với nhau cả mà, nguội một chút nhưng no là được anh ạ. Đến lúc vị khách ăn xong lấy tiền anh mới nhìn kỹ thì cũng phận “dép rách, áo vá” như mình cả. Cầm đồng tiền mà cứ thấy không dám nhìn thẳng vào mặt nhau.
Cùng họ hàng với hủ tiếu gõ còn có một loại hủ tiếu nữa mà chỉ nghe qua đã đủ để nói lên nhiều điều xoay quanh cái chữ nghèo, đó chính là Hủ tiếu thất nghiệp. Đây là loại hình gắn liền với Dân Nam "bản địa". Chẳng hạn, trong một xóm nghèo của người miền Nam, một gia đình nào đó đang "thất nghiệp" và nhận thấy đầu hẻm đang còn trống bèn bày ra đó vài cái bàn, cái ghế, đặt thùng "nước lèo" ít "phụ tùng" rồi "nổi lửa" bán hủ tiếu "thất nghiệp" với chất lượng và giá cả cũng tương đương với hủ tiếu gõ.
Người bán hủ tiếu thất nghiệp và người ăn hủ tiếu thất nghiệp thường là người cùng xóm quen thân lâu đời, do vậy khi bị "kẹt"chưa có việc làm có thể ra ăn rồi "ký sổ" khi nào đi làm có tiền sẽ "thanh toán." Có lẽ chính vì vậy mà người Nam gọi hủ tiếu đầu hẻm là hủ tiếu "thất nghiệp”. Suy cho cùng thì dù có gọi tên nó như thế nào, hủ tiếu gõ hay hủ tiếu thất nghiệp thì đó cũng là thứ thuộc về: những góc khuất trong lòng thành phố.
Du lịch, GO! - Theo Vân Thiên (Nguoiduatin), internet
Thứ Tư, 13 tháng 6, 2012
Về Đề Gi, nếm gỏi cá mai…
Một cậu bạn mới quen tha thiết mời: “Chị về Đề Gi quê em chơi đi, vừa xem lễ hội cầu ngư, vừa thưởng thức món gỏi cá mai trứ danh ở vùng cửa biển này”. Ừ, thì đi…
Phi gỏi cá mai, bất ghé Đề Gi
Đấy là câu cửa miệng của nhiều người dân quê ở Đề Gi, Cát Khánh, Phù Cát. Đề Gi có đặc sản gì? Gỏi cá mai chớ còn gì nữa. “Đi mà không nếm gỏi mai. Sao gọi đã đến Đề Gi cho đành”. Một anh bạn đã “xuất khẩu” hai câu thơ, giữa lúc còn đang nhồm nhoàm miếng gỏi cá mai bùi bùi, beo béo.
Theo sách Đại Nam nhất thống chí thì cửa Đề Gi “rộng 11 trượng (1 trượng = 3,33m theo hệ đo lường cổ Trung Hoa), thủy triều lên sâu 6 thước, thủy triều xuống sâu 4 thước. Phía tây có đầm Đạm Thủy, thuyền buôn thường đổ ở đây". Con cá mai, cá trỏng chủ yếu sống ở đầm Đạm Thủy, vùng từ Cát Khánh đến xã Mỹ Thành (Phù Mỹ).
Về hình thức, con cá mai, cá trỏng gần giống như cá cơm vậy, nhưng thịt trong hơn, và hầu như không có máu. Chỉ người dân địa phương nghiện ăn gỏi cá mới phân biệt được được con cá nào là cá mai, con nào là cá trỏng. Cá trỏng trông dài hơn con cá mai. Cá mai dẹp mình hơn, ngắn hơn. Ở Đề Gi có hai quán làm gỏi cá mai ngon, trong đó quán Thiên Lý.
Quán được lấy tên theo bà chủ Nguyễn Thị Thiên Lý. Bà Lý bảo từ năm 22 tuổi bà đã biết làm món gỏi cá này rồi. Nay, bà đã gần 60 tuổi, cũng chỉ chuyên bán duy nhất một món này mà thôi. Quanh năm. Từ tháng 2 đến tháng 6 âm lịch là mùa cá mai, từ tháng 6 đến tháng 12 là mùa cá trỏng. Con cá mai ăn thịt giòn hơn. Còn con cá trỏng thịt ngọt hơn, song ít giòn. Tuy theo gu của mỗi người mà thích, nhưng cả hai mà làm gỏi đều ngon.
Bùi bùi, beo béo vị biển
Cá mai được đánh từ sáng sớm, tươi còn cong mình, bạn chài đã mang đến quán bà. Làm gỏi cá, khó nhất vẫn là khâu rút xương cá. Dùng kéo cắt bỏ đầu, lọc lấy xương, chừa lại chút xương khoảng bằng 1/3 con cá, rồi đem ướp đá lạnh, để cá vẫn có độ tươi giòn. Rau sống rửa sạch, để sẵn sàng.
Khách vào, bà Lý chỉ cần ngồi một chỗ, lấy cá đựng trong thùng đá ra, vớt ráo, trộn thêm bột thính được làm từ nguyên liệu gạo và đậu phộng rang giòn, xay mịn để con cá vừa trông khô ráo, vừa thơm ngon, kích thích vị giác của thực khách. Và, cũng phần nào làm giảm bớt độ “chờn” đối với thực khách lần đầu tiên nếm món cá sống.
Một phần làm nên hương vị khó quên của gỏi cá mai ấy là món nước tương, nước me ăn với gỏi cá. Nước tương được pha chế theo công thức: tỏi ớt xay nhuyễn; đậu phộng rang vàng giã nhỏ, thêm nửa hoặc trái chuối sứ đã thật chín và thêm nước sôi vào. Tất cả bỏ vào cối xay sinh tố xay nhuyễn. Vậy là xong món nước tương vừa có vị beo béo của đậu phộng, ngòn ngọt thơm mùi chuối chín.
Cũng có người thích ăn gỏi cá với nước me, kim chi. Cách làm tương me cũng khá đơn giản. Me chín, thêm tỏi ớt, xì dầu, ăn cùng với kim chi, tạo nên hương vị vừa chua, vừa cay. Rau sống ăn gỏi cá, đều là thứ rau từ vườn nhà: xà lách, tía tô, thì là… nhưng không thể thiếu chuối chát, xoài xanh hay khế xắt lát mỏng để khử tanh, lại thêm vị chua chua dễ chịu.
Lần đầu tiên thử ăn món cá sống cuốn với bánh tráng, rau sống, thú thiệt, tôi có hơi gờn gợn. Vậy mà, cắn thử một miếng, cảm giác miếng cá có vị bùi bùi, beo béo quyện với vị ngọt, cay từ nước tương, lại muốn cắn thêm miếng thứ hai. Rồi miếng nữa cho tới khi căng bụng, đã thèm cái miệng. “Ăn gỏi cá, phải chan nước tương nhiều mới ngon. Một dĩa cá là nửa ca nước tương, vừa chấm, vừa húp… ”- bà Lý bày tôi cách thưởng thức gỏi cá sao cho ngon.
Mùa này đang là mùa cá mai. Hiện giá bán một dĩa gỏi cá khoảng 25.000 đồng, tiền bánh tráng tính riêng. Bà Lý cho biết, thực khánh ngoài dân địa phương, còn có người ở Quy Nhơn, hoặc các nơi khác, ngay cả thành phố Hồ Chí Minh. Với những ai đã trót ghiền gỏi cá Đề Gi, mỗi lần muốn ăn, cũng không quá khó, chỉ cần điện thoại (theo số 056.3654201) gọi đặt trước cho bà Lý, bà sẽ chuẩn bị sẵn sàng, chờ người trực tiếp đến lấy hoặc gởi theo xe đến nơi.
Và đắm mình trong lễ hội cầu ngư
Tháng tư âm lịch, từ ngày 10 đến 12, về Đề Gi, Cát Khánh, khách không chỉ được nếm món gỏi cá mai đặc sản, mà còn được đắm mình trông không khí của Lễ hội Cầu ngư của xứ sở miền biển này.
Tương truyền, vào khoảng năm 1805, triều Gia Long ngũ niên, bỗng có 1 con cá bị chết và trôi dạt vào bờ biển Đề Gi.
Dân làng không biết cá gì, cũng không biết điều gì sẽ xảy ra liền trình tấu lên quan huyện Phù Ly. Hôm sau, tự nhiên có một ông lão râu tóc bạc phơ không rõ từ đâu tới, ôm con cá mà rằng: "Ta là người ở dưới Thủy cung, đã có công với triều đình. Khi Đức Thế tổ lâm nạn, ta đã đưa người ra khỏi Mũi này!". Nghe vậy, các quan hàng huyện liền trình tấu lên tỉnh và tỉnh cho phép làng An Quang được lập Lăng thờ, gọi là Lăng Ông Nam Hải.
Toàn bộ việc chuẩn bị cho Lễ hội Cầu ngư ở Đề Gi do Ban Vạn ngư nghiệp thôn An Quang đảm nhiệm. Ông Dương Chí Bích, Vạn trưởng Ban Vạn ngư nghiệp, cho biết, lễ hội được tổ chức vào ngày 10.4, lấy theo ngày được nhận được sắc phong của vua Gia Long cho ông Nam hải Đại tướng quân lục tộc Ngọc Lân.
Lễ chính được tiến hành trong 3 ngày. Ngày đầu tiên là lễ Rước Ông (còn gọi là lễ Nghinh Ông), lễ An Vị và hát múa Bả Trạo. Ngày thứ hai là lễ Cầu Siêu (phù hộ cho những người không may bị chết trôi). Ngày thứ ba của lễ hội diễn ra Hát án. Sau 3 ngày lễ chính, những ngày sau của Lễ hội Cầu ngư diễn ra khá nhiều chương trình, tiết mục: hát Bội, hát múa Bả Trạo, đua thuyền cùng với các xã bạn như Cát Minh, Mỹ Thành. Những ngày diễn ra lễ hội, người dân địa phương, rồi ngư dân Cát Khánh đi làm ăn xa ở các tỉnh trong Nam, ngoài Bắc; thậm chí cả những bạn hàng cung cấp ngư cụ, máy móc cho tàu thuyền ngư dân đang ở các địa phương khác cũng về tham gia lễ hội.
Bà Thái Thị Xuyên, một người con quê Đề Gi, nay là Giám đốc Công ty TNHH Thanh Tú chuyên sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ, xuất khẩu ở Đắc Lắc cho biết, dù bận rộn công việc kinh doanh, nhưng hầu như năm nào bà cũng về quê dự lễ hội Cầu Ngư. “Mỗi năm về quê, được thành kính thắp cây hương lạy tạ Ông, thầm nguyện cầu cho những dự định làm ăn được thuận lợi; rồi đánh trống chầu hát bội… Tôi luôn cảm giác như mình chưa bao giờ xa quê hương. Không hẳn là tâm linh, nhưng hình như mọi sở cầu, sở nguyện của tôi được Ông phù hộ, đều xuôi chèo mát mái”.
Một lần về Đề Gi thử nếm gỏi cá mai, dự Lễ hội Cầu Ngư mang đậm chất dân dã nhưng không kém phần trang trọng, hào sảng của người dân Bình Định, tại sao không nhỉ?
Du lịch, GO! - Theo Băng Thanh I (Cà Mau Online)
Phi gỏi cá mai, bất ghé Đề Gi
Đấy là câu cửa miệng của nhiều người dân quê ở Đề Gi, Cát Khánh, Phù Cát. Đề Gi có đặc sản gì? Gỏi cá mai chớ còn gì nữa. “Đi mà không nếm gỏi mai. Sao gọi đã đến Đề Gi cho đành”. Một anh bạn đã “xuất khẩu” hai câu thơ, giữa lúc còn đang nhồm nhoàm miếng gỏi cá mai bùi bùi, beo béo.
Theo sách Đại Nam nhất thống chí thì cửa Đề Gi “rộng 11 trượng (1 trượng = 3,33m theo hệ đo lường cổ Trung Hoa), thủy triều lên sâu 6 thước, thủy triều xuống sâu 4 thước. Phía tây có đầm Đạm Thủy, thuyền buôn thường đổ ở đây". Con cá mai, cá trỏng chủ yếu sống ở đầm Đạm Thủy, vùng từ Cát Khánh đến xã Mỹ Thành (Phù Mỹ).
Về hình thức, con cá mai, cá trỏng gần giống như cá cơm vậy, nhưng thịt trong hơn, và hầu như không có máu. Chỉ người dân địa phương nghiện ăn gỏi cá mới phân biệt được được con cá nào là cá mai, con nào là cá trỏng. Cá trỏng trông dài hơn con cá mai. Cá mai dẹp mình hơn, ngắn hơn. Ở Đề Gi có hai quán làm gỏi cá mai ngon, trong đó quán Thiên Lý.
Quán được lấy tên theo bà chủ Nguyễn Thị Thiên Lý. Bà Lý bảo từ năm 22 tuổi bà đã biết làm món gỏi cá này rồi. Nay, bà đã gần 60 tuổi, cũng chỉ chuyên bán duy nhất một món này mà thôi. Quanh năm. Từ tháng 2 đến tháng 6 âm lịch là mùa cá mai, từ tháng 6 đến tháng 12 là mùa cá trỏng. Con cá mai ăn thịt giòn hơn. Còn con cá trỏng thịt ngọt hơn, song ít giòn. Tuy theo gu của mỗi người mà thích, nhưng cả hai mà làm gỏi đều ngon.
Bùi bùi, beo béo vị biển
Cá mai được đánh từ sáng sớm, tươi còn cong mình, bạn chài đã mang đến quán bà. Làm gỏi cá, khó nhất vẫn là khâu rút xương cá. Dùng kéo cắt bỏ đầu, lọc lấy xương, chừa lại chút xương khoảng bằng 1/3 con cá, rồi đem ướp đá lạnh, để cá vẫn có độ tươi giòn. Rau sống rửa sạch, để sẵn sàng.
Khách vào, bà Lý chỉ cần ngồi một chỗ, lấy cá đựng trong thùng đá ra, vớt ráo, trộn thêm bột thính được làm từ nguyên liệu gạo và đậu phộng rang giòn, xay mịn để con cá vừa trông khô ráo, vừa thơm ngon, kích thích vị giác của thực khách. Và, cũng phần nào làm giảm bớt độ “chờn” đối với thực khách lần đầu tiên nếm món cá sống.
Một phần làm nên hương vị khó quên của gỏi cá mai ấy là món nước tương, nước me ăn với gỏi cá. Nước tương được pha chế theo công thức: tỏi ớt xay nhuyễn; đậu phộng rang vàng giã nhỏ, thêm nửa hoặc trái chuối sứ đã thật chín và thêm nước sôi vào. Tất cả bỏ vào cối xay sinh tố xay nhuyễn. Vậy là xong món nước tương vừa có vị beo béo của đậu phộng, ngòn ngọt thơm mùi chuối chín.
Cũng có người thích ăn gỏi cá với nước me, kim chi. Cách làm tương me cũng khá đơn giản. Me chín, thêm tỏi ớt, xì dầu, ăn cùng với kim chi, tạo nên hương vị vừa chua, vừa cay. Rau sống ăn gỏi cá, đều là thứ rau từ vườn nhà: xà lách, tía tô, thì là… nhưng không thể thiếu chuối chát, xoài xanh hay khế xắt lát mỏng để khử tanh, lại thêm vị chua chua dễ chịu.
Lần đầu tiên thử ăn món cá sống cuốn với bánh tráng, rau sống, thú thiệt, tôi có hơi gờn gợn. Vậy mà, cắn thử một miếng, cảm giác miếng cá có vị bùi bùi, beo béo quyện với vị ngọt, cay từ nước tương, lại muốn cắn thêm miếng thứ hai. Rồi miếng nữa cho tới khi căng bụng, đã thèm cái miệng. “Ăn gỏi cá, phải chan nước tương nhiều mới ngon. Một dĩa cá là nửa ca nước tương, vừa chấm, vừa húp… ”- bà Lý bày tôi cách thưởng thức gỏi cá sao cho ngon.
Mùa này đang là mùa cá mai. Hiện giá bán một dĩa gỏi cá khoảng 25.000 đồng, tiền bánh tráng tính riêng. Bà Lý cho biết, thực khánh ngoài dân địa phương, còn có người ở Quy Nhơn, hoặc các nơi khác, ngay cả thành phố Hồ Chí Minh. Với những ai đã trót ghiền gỏi cá Đề Gi, mỗi lần muốn ăn, cũng không quá khó, chỉ cần điện thoại (theo số 056.3654201) gọi đặt trước cho bà Lý, bà sẽ chuẩn bị sẵn sàng, chờ người trực tiếp đến lấy hoặc gởi theo xe đến nơi.
Và đắm mình trong lễ hội cầu ngư
Tháng tư âm lịch, từ ngày 10 đến 12, về Đề Gi, Cát Khánh, khách không chỉ được nếm món gỏi cá mai đặc sản, mà còn được đắm mình trông không khí của Lễ hội Cầu ngư của xứ sở miền biển này.
Tương truyền, vào khoảng năm 1805, triều Gia Long ngũ niên, bỗng có 1 con cá bị chết và trôi dạt vào bờ biển Đề Gi.
Dân làng không biết cá gì, cũng không biết điều gì sẽ xảy ra liền trình tấu lên quan huyện Phù Ly. Hôm sau, tự nhiên có một ông lão râu tóc bạc phơ không rõ từ đâu tới, ôm con cá mà rằng: "Ta là người ở dưới Thủy cung, đã có công với triều đình. Khi Đức Thế tổ lâm nạn, ta đã đưa người ra khỏi Mũi này!". Nghe vậy, các quan hàng huyện liền trình tấu lên tỉnh và tỉnh cho phép làng An Quang được lập Lăng thờ, gọi là Lăng Ông Nam Hải.
Toàn bộ việc chuẩn bị cho Lễ hội Cầu ngư ở Đề Gi do Ban Vạn ngư nghiệp thôn An Quang đảm nhiệm. Ông Dương Chí Bích, Vạn trưởng Ban Vạn ngư nghiệp, cho biết, lễ hội được tổ chức vào ngày 10.4, lấy theo ngày được nhận được sắc phong của vua Gia Long cho ông Nam hải Đại tướng quân lục tộc Ngọc Lân.
Lễ chính được tiến hành trong 3 ngày. Ngày đầu tiên là lễ Rước Ông (còn gọi là lễ Nghinh Ông), lễ An Vị và hát múa Bả Trạo. Ngày thứ hai là lễ Cầu Siêu (phù hộ cho những người không may bị chết trôi). Ngày thứ ba của lễ hội diễn ra Hát án. Sau 3 ngày lễ chính, những ngày sau của Lễ hội Cầu ngư diễn ra khá nhiều chương trình, tiết mục: hát Bội, hát múa Bả Trạo, đua thuyền cùng với các xã bạn như Cát Minh, Mỹ Thành. Những ngày diễn ra lễ hội, người dân địa phương, rồi ngư dân Cát Khánh đi làm ăn xa ở các tỉnh trong Nam, ngoài Bắc; thậm chí cả những bạn hàng cung cấp ngư cụ, máy móc cho tàu thuyền ngư dân đang ở các địa phương khác cũng về tham gia lễ hội.
Bà Thái Thị Xuyên, một người con quê Đề Gi, nay là Giám đốc Công ty TNHH Thanh Tú chuyên sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ, xuất khẩu ở Đắc Lắc cho biết, dù bận rộn công việc kinh doanh, nhưng hầu như năm nào bà cũng về quê dự lễ hội Cầu Ngư. “Mỗi năm về quê, được thành kính thắp cây hương lạy tạ Ông, thầm nguyện cầu cho những dự định làm ăn được thuận lợi; rồi đánh trống chầu hát bội… Tôi luôn cảm giác như mình chưa bao giờ xa quê hương. Không hẳn là tâm linh, nhưng hình như mọi sở cầu, sở nguyện của tôi được Ông phù hộ, đều xuôi chèo mát mái”.
Một lần về Đề Gi thử nếm gỏi cá mai, dự Lễ hội Cầu Ngư mang đậm chất dân dã nhưng không kém phần trang trọng, hào sảng của người dân Bình Định, tại sao không nhỉ?
Du lịch, GO! - Theo Băng Thanh I (Cà Mau Online)
Thứ Ba, 12 tháng 6, 2012
Những điểm khác biệt thú vị giữa bún ở ba miền
Sự pha trộn khéo léo cùng với việc phong phú về nguyên liệu đã tạo nên các món bún nổi tiếng ở ba miền như bún bò, bún cá, bún chả...
Ngoài món cơm truyền thống thì có thể nói bún là món ăn quen thuộc của người dân Việt Nam. Đi từ Bắc vào Nam, bạn sẽ được thưởng thức rất nhiều loại bún với cách chế biến cũng như hương vị khác nhau, thể hiện tính cách khác nhau giữa các vùng miền.
Sự tinh tế trong món bún của người Bắc
Những món bún xứ Bắc được chế biến rất cầu kỳ, tinh tế, pha trộn nhiều các nguyên liệu với nhau để món ăn đẹp mắt, hấp dẫn và luôn ngon miệng.
Bún thang thể hiện rõ nét nhất sự tinh tế của người miền Bắc. Từ chuẩn bị cho đến nấu thành phẩm, người ta tính được có khoảng 20 nguyên liệu trong bát bún thang. Nào là rau răm, mùi tàu, trứng gà tráng mỏng, lườn gà, giò lụa... được thái mỏng hoặc xé sợi, rắc đều lên trên bát bún trắng, thêm một ít tôm khô. Gia vị ăn kèm phong phú như giấm, ớt, tỏi, hạt tiêu, chanh, một tí xíu mắm tôm.
Các loại bún khác như bún chả, bún mọc, bún đậu mắm tôm.... tuy không nhiều nguyên liệu như bún thang, nhưng sự cầu kì không hề thua kém. Mỗi món ăn đều đòi hỏi người đầu bếp phải chuẩn bị một cách tỉ mỉ, từ lựa chọn nguyên liệu, nấu nước dùng cho đến các loại rau ăn kèm, tất cả phải hòa hợp với nhau để tạo nên một món ăn vừa đẹp mắt vừa ngon miệng.
Không thể thiếu vị cay trong món bún của người Trung
Món bún của người miền Trung đơn giản hơn nhưng cũng được nhiều người ưa thích. Người miền Trung vốn dĩ thích ăn cay, nên các loại bún ở đây không thể thiếu đi cái vị cay đó được.
Đại diện tiêu biểu nhất chính là bún bò Huế, ai từng ăn bát bún bò đúng chất Huế sẽ không quên được cái vị cay của nó. Cái vị cay đem đến cho người ăn chính là ớt, ớt được người bán cho vào một ít trong nước dùng, ngoài ra trên bàn ăn luôn có nhiều loại ớt cho bạn lựa chọn như: ớt băm, ớt sa tế, ớt trái thái lát... Bát bún bò Huế nóng hổi, vừa ăn vừa hít hà, ăn xong thì người đã toát mồ hôi hột.
Ngoài bún bò Huế, các tỉnh ven biển dọc miền Trung còn nổi tiếng với món bún chả cá... nước dùng trong, không cay như bún bò Huế nhưng vị cay lại đến từ chén nước chấm ăn kèm với chả cá. Nước chấm hơi sệt, được pha chế từ đường, nước mắt, tỏi và ớt, cùng với đó là một chén ớt xiêm xanh như thách thức người ăn thử mức độ ăn cay của mình.
Đậm đà vị mắm trong món bún của người Nam
Ngược vào miền Nam, bạn sẽ được thưởng thức nhiều món bún ngon như: bún mắm, bún cá, bún nước lèo... Món bún ở đây không cầu kỳ, được tạo nên từ những nguyên liệu gần gũi trong đời sống của người dân.
Mắm là nguyên liệu chính trong món bún của người miền Nam. Nổi tiếng nhất là món bún mắm, nước dùng được nấu bằng mắm các loại cá trèn, cá sặc, cá lóc, cá linh... có nhiều trên các sông rạch miền Tây. Bún mắm được chế biến với tôm, thịt ba chỉ, mực. Sóc Trăng có món bún nước lèo, hương vị cũng thoang thoảng như bún mắm bởi nước dùng nấu bằng mắm bò hóc - một loại mắm đặc sản của người Khmer sinh sống ở Sóc Trăng, Trà Vinh.
Món bún của người miền Nam thường được ăn kèm với rất nhiều loại rau có quen thuộc trong đời sống của người dân. Chỉ cần đi lang thang một vòng trong vườn nhà là bạn đã có nhiều loại rau tươi ngon đủ cho một bữa ăn, nào là rau đắng, điên điển, bông súng, kèo nèo, húng lủi... Hương vị đậm đà của món bún được kết hợp với nhiều loại rau mang đến cho người ăn một trải nghiệm vô cùng thú vị.
Du lịch, GO! - Theo Huấn Phan (Ngoisao)
Ngoài món cơm truyền thống thì có thể nói bún là món ăn quen thuộc của người dân Việt Nam. Đi từ Bắc vào Nam, bạn sẽ được thưởng thức rất nhiều loại bún với cách chế biến cũng như hương vị khác nhau, thể hiện tính cách khác nhau giữa các vùng miền.
Sự tinh tế trong món bún của người Bắc
Những món bún xứ Bắc được chế biến rất cầu kỳ, tinh tế, pha trộn nhiều các nguyên liệu với nhau để món ăn đẹp mắt, hấp dẫn và luôn ngon miệng.
Bún thang thể hiện rõ nét nhất sự tinh tế của người miền Bắc. Từ chuẩn bị cho đến nấu thành phẩm, người ta tính được có khoảng 20 nguyên liệu trong bát bún thang. Nào là rau răm, mùi tàu, trứng gà tráng mỏng, lườn gà, giò lụa... được thái mỏng hoặc xé sợi, rắc đều lên trên bát bún trắng, thêm một ít tôm khô. Gia vị ăn kèm phong phú như giấm, ớt, tỏi, hạt tiêu, chanh, một tí xíu mắm tôm.
Các loại bún khác như bún chả, bún mọc, bún đậu mắm tôm.... tuy không nhiều nguyên liệu như bún thang, nhưng sự cầu kì không hề thua kém. Mỗi món ăn đều đòi hỏi người đầu bếp phải chuẩn bị một cách tỉ mỉ, từ lựa chọn nguyên liệu, nấu nước dùng cho đến các loại rau ăn kèm, tất cả phải hòa hợp với nhau để tạo nên một món ăn vừa đẹp mắt vừa ngon miệng.
Không thể thiếu vị cay trong món bún của người Trung
Món bún của người miền Trung đơn giản hơn nhưng cũng được nhiều người ưa thích. Người miền Trung vốn dĩ thích ăn cay, nên các loại bún ở đây không thể thiếu đi cái vị cay đó được.
Đại diện tiêu biểu nhất chính là bún bò Huế, ai từng ăn bát bún bò đúng chất Huế sẽ không quên được cái vị cay của nó. Cái vị cay đem đến cho người ăn chính là ớt, ớt được người bán cho vào một ít trong nước dùng, ngoài ra trên bàn ăn luôn có nhiều loại ớt cho bạn lựa chọn như: ớt băm, ớt sa tế, ớt trái thái lát... Bát bún bò Huế nóng hổi, vừa ăn vừa hít hà, ăn xong thì người đã toát mồ hôi hột.
Ngoài bún bò Huế, các tỉnh ven biển dọc miền Trung còn nổi tiếng với món bún chả cá... nước dùng trong, không cay như bún bò Huế nhưng vị cay lại đến từ chén nước chấm ăn kèm với chả cá. Nước chấm hơi sệt, được pha chế từ đường, nước mắt, tỏi và ớt, cùng với đó là một chén ớt xiêm xanh như thách thức người ăn thử mức độ ăn cay của mình.
Đậm đà vị mắm trong món bún của người Nam
Ngược vào miền Nam, bạn sẽ được thưởng thức nhiều món bún ngon như: bún mắm, bún cá, bún nước lèo... Món bún ở đây không cầu kỳ, được tạo nên từ những nguyên liệu gần gũi trong đời sống của người dân.
Mắm là nguyên liệu chính trong món bún của người miền Nam. Nổi tiếng nhất là món bún mắm, nước dùng được nấu bằng mắm các loại cá trèn, cá sặc, cá lóc, cá linh... có nhiều trên các sông rạch miền Tây. Bún mắm được chế biến với tôm, thịt ba chỉ, mực. Sóc Trăng có món bún nước lèo, hương vị cũng thoang thoảng như bún mắm bởi nước dùng nấu bằng mắm bò hóc - một loại mắm đặc sản của người Khmer sinh sống ở Sóc Trăng, Trà Vinh.
Món bún của người miền Nam thường được ăn kèm với rất nhiều loại rau có quen thuộc trong đời sống của người dân. Chỉ cần đi lang thang một vòng trong vườn nhà là bạn đã có nhiều loại rau tươi ngon đủ cho một bữa ăn, nào là rau đắng, điên điển, bông súng, kèo nèo, húng lủi... Hương vị đậm đà của món bún được kết hợp với nhiều loại rau mang đến cho người ăn một trải nghiệm vô cùng thú vị.
Du lịch, GO! - Theo Huấn Phan (Ngoisao)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Bài đăng phổ biến
-
Bản Việt hóa đã dựa trên bản việt hóa và bộ font chuẩn của anhtaidatquang phông chữ thuộc về Jenkey1002 bên pes.vn để tạo nên sản phẩm...
-
Nhung van de lien quan den tinh trang qua tai du khach vao moi dip le Tuy chua het nam 2013. Doi song vat chat va tinh than duoc nang cao. H...
-
Ngoi chua nay da tro thanh bieu tuong van hoa cua quoc gia Cac nganh du lich Da Nang phat trien keo theo cac khach san Da Nang lon nho mo ra...
-
Tôi không biết chọn ai khi một người thì cho tôi sự an toàn, yên tâm về kinh tế còn một người cho tôi tình yêu. ảnh minh họa Tôi và anh từng...
-
Tuấn C dẫn ngừơi yêu đi ăn bún bò Huế, vô tình thấy trong tô bún có 01 cọng lông, Tuấn C yêu cầu chủ quán phải đền cho mình. Lúc này cô bạn ...
-
Hang tuan du khach se co cac tour khuyen mai dac biet den muc gia re bat ngo dang cho do quy khach Lua chon 9 mon an nong ngon lanh cung han...
-
Nganh du lich da nang ngay nay duoc phat trien sau nhung nam dat nuoc doi moi. May nam tro lai day, Da Nang tro thanh diem nong ve dau t...
-
Ngành du lịch miền Trung mang cả sự hiện đại và năng động Hàng năm du lịch chiếm tới 55% GDP toàn tỉnh. Nạn trộm cắp trong lễ hội Festival H...
-
Cùng với sự bào mòn của thời gian và chiến tranh khiến ngôi mộ không còn nguyên hiện trạng Với nhiều loài hoa rừng khoe sắc. Sở sẽ trình với...
-
Ton chi muc dich ma Quy dat ra la “Di tan noi - Nhin tan mat - Lam tan tam - Trao tan tay”. Trong thoi gian nay, mot so thanh vien trong Quy...