Hiển thị các bài đăng có nhãn Phong tục - Văn hóa VN. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phong tục - Văn hóa VN. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 25 tháng 6, 2012

Bản Dao bên vách núi

Cũng như bao vùng quê khác, Nậm Cần có những nếp nhà nằm chênh vênh bên sườn núi và có những chiếc chòi lợp ngói, thưng gỗ bốn bề, nền làm cao hơn mặt đất chừng 30 - 40 cm... Đó là kho thóc của người Dao đỏ nơi đây.

Ngược dốc men theo con đường quanh co bên vách núi, uốn lượn trong sương mù, chúng tôi đến Nậm Cần, bản người Dao đỏ ở xã Dần Thàng (Văn Bàn, Lào Cai) khi dòng Nậm Chăn đang mùa nước cạn. Theo tiếng địa phương, thì Nậm Cần gọi là “Nậm Cân”, còn thời xưa, người Pháp gọi là “Nậm Cấn”. Tên bản, tên suối đều mang tên Nậm Cần. Đây là thôn xa nhất xã Dần Thàng. Nằm chênh vênh ở độ cao hơn 1.000 mét so với mặt nước biển, thời tiết ở Nậm Cần cũng khá giống với Sa Pa. Mây mù bao phủ núi đồi, thỉnh thoảng có sương mù ướt áo...

Cây “cổ thụ” giữa đại ngàn

Đến suối Nậm Cần, qua cầu treo, gửi xe máy vào một quán nhỏ ven đường, chúng tôi bắt đầu cuốc bộ gần 3 cây số vượt dốc trơn trượt để vào bản. Thỉnh thoảng chỉ vào vệt bánh xe máy lằn sâu trong lớp đất, anh bạn đi cùng bảo: Đây là vệt xích đấy. Dường như thấy tôi chưa hiểu, bạn giải thích thêm: Đường đất trơn nên để đi xe máy được, họ dùng xích quấn quanh bánh xe, tạo ma sát, bám đường để chống trơn trượt đấy... Ra vậy! Trong “cái khó ló cái khôn” là thế. Mặc dù không xa, nhưng mãi đến gần trưa chúng tôi mới vào đến đầu bản khi đã thấm mệt.

< Miệt mài học chữ cổ Nôm - Dao.

Lên tới bản, chúng tôi được Trưởng thôn Triệu Xuân Quý hồ hởi tiếp đón. Có hẹn từ trước nên ông đã đợi sẵn, mặc dù theo như lời con trai cả thì: bố tôi rất ít khi ăn cơm nhà. Lẽ ra, hôm nay ông Quý cũng phải đi cúng giải hạn cho một gia đình trong bản. Là người am hiểu, biết nhiều chữ Nôm Dao, đọc được sách cổ các cụ để lại, nên ông đã trở thành thầy cúng cho cả bản. Tuy vậy, có hẹn rồi, ông ở nhà để đón chúng tôi. Rót chén chè nóng mời khách, ông trò chuyện: Chè này ông cụ tôi làm đấy!

Trước lời mời mọc, tôi nhấp một ngụm chè. Không phải vị đắng chát của loại chè đen chúng tôi vẫn thường uống, mà là thứ chè Shan Tuyết trên núi cao. Cây chè to phải trèo lên mới hái được. Lá chè được hái về, cho vào nồi luộc rồi đem giã nát thành bột, sau đó sấy khô rồi cho vào ống vầu non, treo trên gác bếp. Cứ thế chè để dùng quanh năm. Mỗi khi dùng, lấy một nhúm bột nhỏ, rồi hãm vào phích uống nóng...

Bố ông Quý là cụ Triệu Long Tỉnh, đã 43 tuổi Đảng, người có 25 năm làm Xã đội trưởng của Dần Thàng ngồi bên bếp lửa sưởi ấm, bộc bạch: Thứ chè uống của người Dao chúng tôi đó. Người già thì vẫn thích uống chè kiểu truyền thống như vậy. Bên bếp lửa sưởi ấm, bao nhiêu câu chuyện lâu ngày giờ được cụ Triệu Long Tỉnh, năm nay đã gần 80 tuổi như “cởi cả tấm lòng”... Từ chuyện tham gia kháng chiến chống Pháp ở tận Yên Bái, rồi có những ngày tham gia giải phóng thị xã Lào Cai cuối năm 1950. Sinh ra ở Thẩm Dương, nhưng từ nhỏ theo gia đình vào Nậm Cần khai hoang và sinh sống cho đến giờ.

< Thi đẩy gậy tại Hội Xòe chiêng.

Tuổi đã cao, nhưng cụ Tỉnh vẫn còn khoẻ và minh mẫn lắm, như cây cổ thụ giữa đại ngàn. Đứa chắt nội của cụ đã 13 tuổi... Vừa trò chuyện vừa nhìn lên những huân chương kháng chiến, huy chương chiến công, hay những tấm bằng khen, giấy khen những năm tham gia làm xã đội mà Đảng và Nhà nước trao tặng mới thấy những nỗ lực của cây “cổ thụ” giữa đại ngàn...

Con trai cụ - ông Triệu Xuân Quý, cũng đã từng tham gia công việc xã hội, giờ được bà con tín nhiệm trao cho chức danh “người vác tù và hàng tổng”... Việc hệ trọng gì của bản, ông Quý đều có mặt.

“Tầm sư” học chữ cổ Nôm Dao

Điều làm chúng tôi hết sức ngạc nhiên là khi đến nhà ông Quý, được tận mắt chứng kiến không khí của buổi học chữ Nôm Dao. Những cậu học trò đang mải miết luyện chữ. Người thì đang lầm rầm đọc những bài học mà thày Quý đã giảng. Con trai của ông Quý, anh Triệu Xuân Yên cho biết: Lớp học do bố tôi phụ trách và trực tiếp giảng dạy. Lớp học như thế này đã duy trì được 3 - 4 năm nay rồi.

Nhờ tham gia hoạt động xã hội, lại sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng, lại là một đảng viên gương mẫu, nên ông Triệu Xuân Quý được thừa hưởng khá nhiều lợi thế... Đọc thông viết thạo, sau khi được làm lễ “cấp sắc”, ông đã tự mình học chữ, rồi tự mình mượn sách cổ của người già trong bản, chép lại những bài cúng, bài răn dạy con người.

< Các em học sinh sinh hoạt tại trường.

Có chút vốn kiến thức, ông Quý đã mạnh dạn mở lớp dạy chữ Nôm Dao như thế. Thù lao chẳng đáng kể, chủ yếu là lòng ham học hỏi của các cháu mà thôi. Có những cậu học trò từ thôn Nậm Miện (xã Thẩm Dương) cách xa mấy chục cây số cũng “khăn gói quả mướp” vào tận bản Nậm Cần để “tầm sư” học chữ cổ Nôm Dao...

Nhìn lên vách nhà có một khung hình chữ nhật, thấy tôi tò mò như muốn tìm hiểu, ông Quý giới thiệu ngay: Khung làm giấy bản truyền thống của người Dao đấy. Nhà nào cũng làm, nhưng chủ yếu làm giấy chỉ để cúng lễ thôi. Làm giấy cầu kỳ lắm. Nhưng đó là một nét văn hoá rất riêng của người Dao đỏ ở đây. Cũng vì gắn bó với rừng, nên việc tự “sản xuất” ra giấy bản để dùng trong gia đình được người Dao ở Văn Bàn duy trì. Cùng với những chiếc rổ, rá, gùi hay khung đỡ để ủ men rượu, giỏ bắt cá suối... thì làm giấy cũng là một nghề truyền thống khá độc đáo.

Những “kho” thóc... no ấm

Cũng như bao vùng quê khác, Nậm Cần có những nếp nhà nằm chênh vênh bên sườn núi, nhưng điều khiến chúng tôi ngạc nhiên hơn là có những chiếc chòi lợp ngói, thưng gỗ bốn bề, nền làm cao hơn mặt đất chừng 30 - 40 cm... Anh bạn dẫn đường giải thích: “Kho” thóc của bà con đấy! Nhà nào cũng có một chiếc kho để chứa thóc như thế. Với 65 ha ruộng cấy lúa nước một vụ mùa, nhưng nhà nào cũng cấy 2 loại, vừa thóc tẻ và thóc nếp.

< Tiết mục múa quạt của đội văn nghệ Nậm Cần biểu diễn tại Hội Xòe chiêng.

Nhà ông Quý cấy một năm cũng thu được khoảng 6 tấn thóc tẻ và 4 tấn thóc nếp. Gạo tẻ dùng để ăn, còn gạo nếp dùng nấu rượu. Có nhà cấy nhiều ruộng, thu 13 -14 tấn thóc... Điều đó cũng lý giải vì sao, đồng bào Dao đỏ ở Nậm Cần lại có những “kho” chứa thóc như thế.

Trước khi đưa tôi đến Nậm Cần, anh bạn đi cùng khoe: Người Dao ở đây giàu lắm nhé! Chừng như biết tôi còn nghi ngờ, bạn giải thích thêm: Ở đây họ giàu lên nhờ thảo quả đấy. Nhà ai cũng trồng thảo quả. Tuy năm nay năng suất không cao, nhưng thảo quả được giá nên nhà nào cũng có khoản thu khá từ bán thảo quả khô. Nhà ít cũng thu được 20 triệu, nhà nhiều như hộ ông Triệu Xuân Phủ, Đặng Hữu Vi thu gần 1 tấn thảo quả, thu nhập khoảng 200 triệu đồng/vụ.

Trưởng bản Triệu Xuân Quý cũng cho biết: Năm nay, gia đình thu được 50 triệu đồng từ bán thảo quả! Đặc biệt, nhờ hướng dẫn của ngành nông nghiệp, bản đã xây dựng được quy ước về trồng, chăm sóc và chế biến thảo quả bền vững. Do đó, người dân đã cam kết thu hoạch đúng vụ, để có chất lượng thảo quả tốt, chứ không thu hoạch non như những năm trước nữa. Do vậy, giá bán thảo quả cũng được giá hơn. Nhưng có lẽ, điều để người ta nhớ đến Nậm Cần không chỉ là địa phương có diện tích trồng thảo quả khá lớn của Dần Thàng mà còn là một làng nghề truyền thống nấu rượu nếp đặc sản với men lá bí truyền.

Du lịch, GO! - Theo Kiều Lê (Lào Cai Online)

Thứ Sáu, 22 tháng 6, 2012

Chợ đêm Sài Thành

Khi màn đêm buông xuống, Sài Gòn trở nên đẹp lung linh như một cô gái quyến rũ và đầy bí ẩn, hoàn toàn khác với vẻ nồng nhiệt, sôi động vào ban ngày.

Chợ đêm Sài Gòn đã trở thành một nét văn hóa đặc sắc, địa chỉ mua sắm quen thuộc của không ít công nhân thành phố.

Không lộng lẫy như các siêu thị hay trung tâm mua sắm nhưng sự phong phú đa dạng của nhiều loại mặt hàng với giá cả phải chăng vẫn là sức hút lớn nhất ở các khu chợ đêm Sài Gòn. Người dân đi chợ đêm không chỉ để mua sắm mà còn để thưởng thức các món ăn dân dã, được chế biến công phu, điều mà bạn khó tìm thấy trong các cửa hàng.

Đến với chợ đêm chúng ta mới thấy hết sự đa dạng của những mặt hàng được bày bán. Những gian hàng được bố trí khá bắt mắt với đủ chủng loại từ áo quần, dày dép, nón mũ, cho đến những chiếc cột tóc, lắc tay, đồ trang sức. chính sự phong phú đa dạng đó, chợ đêm đã trở nên quen thuộc với nhiều người dân thành phố và cả du khách nước ngoài.

Sài Gòn có rất nhiều các khu chợ đêm, đầu tiên ta phải nhắc tới chợ Minh Phụng (Q.6). Chợ họp từ hai giờ chiều đến nửa đêm, đi chợ khuya, ngang qua đường Minh Phụng không ai lại không dính mắt vào các dãy gian hàng trước chợ, bày bán những hàng dễ dụ khách trẻ: kẹp tóc, vòng tay, dây nịt, túi xách, vải vóc, quần áo. Trên đường Minh Phụng còn có chợ bệt, tức người bán ngồi bệt dưới đất, bày các loại đồ lót nam, nữ, khăn lông, quần áo trẻ em và giày dép đổ đống dài theo lề đường, có khi lấn sang cả đường Hậu Giang.

Chợ đêm Kỳ Hòa nằm ngay trên đường Cao Thắng (Q.10). Đây là khu chợ đêm lớn nhất Sài gòn với hơn 250 quầy hàng. Các mặt hàng chủ yếu được bán ở đây là quần áo may sẵn, giày dép, nón mũ, đồ lót, mỹ phẩm, dây đeo trang sức, hàng thủ công mỹ nghệ, ẩm thực và đặc biệt các hàng mặt khuyến mãi, giảm giá được bày bán khá nhiều nên chợ đêm Kỳ Hòa thu hút một lượng rất lớn học sinh, sinh viên, công nhân viên chức trẻ đến đây mua sắm, giải trí và ăn uống.

Các dãy quầy hàng, quán ăn được bố trí dọc theo nửa con đường Cao Thắng nối dài, một nửa còn lại vẫn lưu thông bình thường, thời gian hoạt động của chợ kéo dài từ 17 giờ ngày hôm trước đến 1 hoặc 2 giờ sáng ngày hôm sau.

Ngoài ra khi nói đến chợ đêm, bất cứ người nào hiện đang ở Sài Gòn hay đã đi xa đều có thể nghĩ đến chợ Bến Thành. Bởi lẽ, chợ Bến Thành là biểu tượng văn hóa của thành phố, một điểm đến của du khách quốc tế và còn là chợ trung tâm của TP.HCM, được xây dựng từ năm 1914. Đã gần 100 năm phát triển không ngừng về thương mại, ngày nay chợ Bến Thành trở thành chợ của du khách phương xa.

Khách đến chợ quá nửa là người nước ngoài yêu thích nét văn hóa đặc trưng Sài Gòn cũng như tìm mua cho mình và người thân những món hàng ưu thích, còn lại là các bạn trẻ vừa dạo bộ thư giãn với bạn bè sau một ngày làm việc, học tập căng thẳng, vừa tranh thủ mua sắm. Đây cũng là nơi để những bạn trẻ học hỏi, giao tiếp, trau dồi vốn ngoại ngữ của mình. Bạn có thể tìm cho mình những chiếc kẹp tóc, khuyên tai xinh xắn, vòng tay, vòng cổ đủ màu sắc làm bằng hạt đá, hạt nhựa và nhiều chất liệu khác.

Nguyên tắc trả giá ở chợ đêm Bến Thành là trả 1/2 so với giá đưa ra. Thưởng thức các món ăn đặc trưng của cả ba miền, các món ăn chế biến từ hải sản và một số món ăn Trung Hoa. Giá cả nhìn chung bình dân, được niêm yết rõ ràng trên các bảng hộp đèn. Đối diện với khu phố ẩm thực là khu mua sắm, hàng hóa ở đây chủ yếu là các mặt hàng tiêu dùng, mỹ nghệ và hàng lưu niệm.

Chợ đêm Bến Thành đã trở thành một điểm đến quen thuộc của người dân thành phố và du khách, đặc biệt vào các ngày cuối tuần lượng khách đến với chợ đêm Bến Thành khá đông. Ngoài ra còn rất nhiều khu chợ đêm nổi tiếng như chợ dày Lý Chính Thắng (Q, 3), phố thời trang Nguyễn Trãi (Q.5), phố người Hoa Chợ Lớn (Q.5)...

Chợ đêm, đã góp phần tạo nên một nét duyên riêng cho Sài Gòn và cũng thỏa mãn nhu cầu mua sắm về đêm của du khách lẫn người dân. Dạo chợ đêm cũng là một cái thú với nhiều người.

Tuy mỗi loại chợ có những đặc điểm riêng, một không gian riêng khiến cho du khách mỗi lần dừng chân lại có cảm giác thích thú. Các chợ đêm không chỉ thu hút các du khách bằng sự đa dạng của dản phẩm, chợ đêm Sài Gòn còn tạo nên những nét đặc trưng mang phong cách của người phương Nam với tất cả tính cách hào phóng, mến khách.

Du lịch, GO! - Theo Thế Quyết (Nguoiduatin)

Thứ Năm, 21 tháng 6, 2012

Nơi cô dâu không được mặc váy ngày cưới

Trước khi đi đăng ký kết hôn, phải “đặt cọc” với chính quyền xã 2 triệu đồng và còn nhiều chuyện phi lý khác nữa tưởng chừng không còn tồn tại nhưng lại đang diễn ra tại một miền quê đất Kinh Bắc.
.
Đám cưới là ngày trọng đại trong cuộc đời mỗi người. Bất cứ cô dâu nào cũng muốn mình thật lộng lẫy trong chiếc váy trắng tinh khôi để bước lên xe hoa. Tuy nhiên, không ít người ngạc nhiên trước câu chuyện một xã lại có quy định cấm cô dâu mặc váy cưới. Được biết, nếu vi phạm “lệ” này, gia đình họ sẽ bị phạt tiền và mất danh dự với làng xóm. Điều đáng nói đó là chuyện tưởng phi lý đó đã và đang tồn tại ở một miền quê vùng Kinh Bắc.

Một chiều chủ nhật, cậu bạn tên Trung, học cùng trung học phổ thông “alo” tôi ra quán cà phê để đưa thiếp cưới.


Ra đến nơi, Trung và vợ sắp cưới đã có mặt từ trước. Sau khi nói chuyện rất vui vẻ, tôi buột miệng khen: “Bạn gái cậu dáng đẹp như thế này chắc mặc váy cưới thì hết chê rồi”. Tôi vừa nói dứt lời, hai vợ chồng Trung nhìn nhau cười đầy ẩn ý. Trung nhăn mặt bảo tôi: “Tiếc là đám cưới vợ tớ không được mặc váy”.

Muốn cưới phải đặt cọc 2 triệu

Cậu bạn nghiêm nghị cho biết, đó là quy định của xã. Nếu ai vi phạm thì coi như mất tiền và danh dự với cả làng. Tò mò, tôi quyết định theo đôi vợ chồng trẻ về quê để tìm hiểu “lệ” làng này.

Quê Trung là làng Phù Lãng (Quế Võ, Bắc Ninh) nằm cạnh con sông Cầu thơ mộng với nghề gốm truyền thống đã nổi tiếng trên cả nước. Từ lâu, chúng tôi đã biết về gốm Phù Lãng và cũng từng đến vùng đất này. Tuy nhiên, đến tận bây giờ, chúng tôi mới biết có một nét “văn hóa” có một không hai: Cô dâu không được mặc váy cưới.

Trung dẫn chúng tôi về nhà chơi như đã hẹn. Sau bữa cơm trưa ấm cúng cùng gia đình, ông Minh, bố đẻ Trung cầm cuốn sổ khoe với PV về những đồ lễ mà ông đã sắm sửa, chuẩn bị lo đám cưới cho cậu con trai lớn. Bỗng dưng Trung hỏi: “Bố đã chuẩn bị tiền đặt cọc để tuần sau con đi đăng ký kết hôn chưa ạ”.

Thấy chúng tôi khó hiểu, Trung phân trần: “Mình chỉ đặt cọc hai triệu đồng vậy thôi chứ cưới xong lại được lấy về. Nếu gia đình nào mà không thực hiện theo nếp “văn hóa” mới sẽ bị phạt số tiền đó. Nhà mình cũng không có ý định vi phạm nhưng nó là quy định rồi. Lâu nay ai tổ chức đám cưới cũng làm vậy, nên mình cũng phải làm theo”. Tôi nghĩ bụng, chẳng lẽ việc đăng ký kết hôn lại như kiểu cầm đồ trên phố?.

Được biết, xã Phù Lãng có năm thôn. Người dân trong xã từ trẻ đến già đều thuộc như lòng bàn tay cái quy định về đám cưới văn hóa mới. Trong đám cưới, gia đình không được bày thuốc lá, không được bày bánh kẹo. Đặc biệt nhất, cô dâu không được mặc váy mà thay bằng chiếc áo dài truyền thống. Thanh niên trong xã bây giờ hay gọi đùa đó là chiến dịch “ba không” cho văn hóa. Trẻ con lên năm lên bảy có khi đọc vanh vách quy định như bảng cửu chương. Cái quy định ấy đã thành “lệ” ở vùng đất này.

“Lệ” được hiện thực bằng cách “đánh” trên kinh tế và danh dự của mỗi gia đình nên ai cũng phải tuân theo. Được biết, mức phạt ai không chấp hành là hai triệu đồng. Số tiền ấy bắt buộc phải nộp khi đôi uyên ương tới xã làm thủ tục đăng ký kết hôn.

Bác Minh cho biết: “Việc làm này chẳng khác nào mấy ông xã nắm dao nắm đằng chuôi. Gia đình nào vi phạm quy định của xã thì không thể lấy lại số tiền đã đặt cọc. Và đương nhiên, gia đình đó cũng phải chịu cảnh lời ra tiếng vào. Còn những người nào sau đám cưới được đến lấy lại tiền cũng coi như lấy lại danh dự cho cả gia đình, dòng họ”.

Mặc váy cưới là “bôi bẩn” uy danh dòng họ?

PV tiếp tục tìm đến nhà vợ chồng Trần Văn Tuấn (SN 1989) và Phạm Thị Phương Hiền (SN 1988). Đôi bạn trẻ này đang tất bật chuẩn bị cho đám cưới. Trên chiếc phông treo trước rạp, chúng tôi thấy ảnh cưới của đôi vợ chồng trẻ có cảnh cô dâu mặc váy.

Chưa kịp thắc mắc thì Tuấn đã nhanh miệng nói luôn: “Chị định hỏi về cái váy cưới phải không? “Lệ” xã không cho mặc váy vào ngày cưới nhưng chụp ảnh thì thoải mái”. Tôi quay sang Tuấn cười, hỏi đùa: “Nhìn vợ em mặc váy cưới xinh vậy mà không dám mất hai triệu đồng diện váy cưới à?”, Tuấn gãi đầu bảo, thực ra số tiền đó so với một đám cưới không đáng gì cả.

Kể cả mất 5 - 10 triệu đồng cậu cũng không “ngại” nhưng nhà có mấy bác đều làm trên ủy ban xã. Tuấn sợ làm trái quy định gây khó cho người thân. Hơn nữa, việc vi phạm quy định gây mất danh tiếng cho dòng họ, gia đình. Suốt ngày phải chịu sự xì xào của thiên hạ. Họ sẽ nói rằng, bố mẹ không biết dạy con. Tuy nhiên, thời gian gần đây, ở xã Phù Lãng đã bắt đầu có một “cuộc cách mạng ngầm” của những cô dâu mang tính cách nổi loạn. Họ là những cô gái lấy chồng “thiên hạ” (những người lấy chồng không ở trong xã Phù Lãng - PV).

Những cô gái này dám mặc váy cưới vì họ lấy chồng xã khác, đăng ký kết hôn ở quê chồng. Ở đó, chính quyền chưa “cập nhật” được những quy định “oái oăm” này. Nguyễn Thu Hường (SN 1991 Thôn Đồng Sài, Phú Lãng) là một điển hình. Cô lấy chồng bằng tuổi ở xã bên cạnh. Vì là cháu gái cả trong gia đình, lại cưới đầu tiên nên ông bà nội của Hường muốn cô mặc áo dài truyền thống theo quy định ở xã. Việc làm này sẽ làm gương cho các em sau này.

Tuy nhiên, khi nghe những lời góp ý của ông bà, cả Hưởng và chồng đều không chịu. Vợ chồng này vẫn quyết tâm mặc váy trong ngày cưới. Ngày cưới đã định trước, không thể hủy hôn nên ông bà nội Hường đã dàn xếp với gia đình thông gia không cho xe hoa đến đón dâu. Họ làm như vậy chỉ với mục đích dọa cô cháu ương ngạnh.

Tưởng rằng sẽ ngăn cản được ý định phá lệ làng của đôi trẻ, nhưng trong lễ rước dâu, Hường vẫn mặc váy cưới, ngồi trên xe máy hồn nhiên tươi cười về nhà chồng. Hỏi Hường về quy định “ba không”, cô cười thỏ thẻ: “Các chị khác lấy chồng ở xã này thì phải chịu thôi.

Bọn em bây giờ lấy chồng nơi khác đều bảo nhau mặc váy. Dần dần muốn các cụ thay đổi quan niệm đi. Đời con gái chỉ có một lần mặc váy lên xe hoa, nếu cấm thì còn gì là cảm giác cưới nữa. Hơn nữa, mặc áo dài cảm thấy mình không được lộng lẫy như người ta”.

Hầu hết những người thuộc thế hệ ông bà của Hiền, Tuấn và Hường đều cho rằng, mặc váy không “vừa mắt” bằng mặc áo dài. Chiếc áo dài vừa kín đáo, vừa gọn gàng, lại thể hiện được truyền thống của người Việt Nam.

Hường kể, ông nội cô mắng: “Chiếc váy cưới dưới thì lòa xòa, trên thì hở hết cả thịt da. Mày mặc vào trông người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm mà cũng đua đòi”. Tuy nhiên, những thế hệ như bố mẹ cô thì lại thấy được sự thiệt thòi của con cái khi ngày cưới không được mặc váy. Nhưng, một chút tôn trọng người già, một chút e ngại đã khiến họ tặc lưỡi chiều theo ý của những con người đã ở cái tuổi gần đất xa trời. Không có ông bà sao có bố mẹ, có các con.

Trao đổi với PV, ông Nguyễn Tiến Lên, phó chủ tịch UBND xã Phù Lãng cho biết: “Quy định trên không phải do chúng tôi tự đặt ra mà do người dân đề nghị, lấy ý kiến đa số người dân. Từ đó, thông qua hội đồng nhân dân để đưa nó thành quy chế của địa phương. Việc làm này thực hiện nếp sống văn hóa mới”.

Theo ông Liên, người dân ở đây nói với UBND rằng, do địa hình của địa phương, đường đất bẩn và bụi, mặc váy phủ xuống đường sẽ chẳng khác nào cái chổi sể quét đường. Thứ hai, do phương tiện đi lại trước đây hầu như chỉ có xe máy, mặc váy cưới mà ngồi xe máy thì vừa không thẩm mỹ lại mất an toàn. Thứ ba, người dân quê nhìn cái váy sẽ thấy lạc lõng với cuộc sống nghèo khó.

Hơn nữa, hầu hết người dân cho rằng, áo dài truyền thống mặc vừa đẹp, vừa gọn gàng phù hợp với điều kiện của địa phương. Nếu bây giờ đại đa số họ bảo hủy quy định cấm mặc váy cưới thì chính quyền địa phương sẽ làm ngay. UBND xã không tự đặt ra quy định và cũng sẽ không tự phá bỏ quy định.

Du lịch, GO! - Theo Nguoiduatin, internet

Thứ Ba, 19 tháng 6, 2012

Chuyện chợ ở Sài Gòn

Đi đến đâu ở Việt Nam thì chỗ đầu tiên bạn được khuyên nên đến thăm chính là cái chợ.
Ở đó có những thứ bạn cần cho một chỗ ở mới, có các sản vật từ thiên nhiên đến nhân tạo và hơn hết thảy, ở đó đặc sệt một thứ văn hóa vùng miền... cho dù bạn có thích hay không thì bạn cũng phải ít nhiều hít thở với nó, chia sẻ và gắn bó với bầu không khí ấy.

Không ai có thể nói hết Sài Gòn có bao nhiêu cái chợ, ý tôi là chợ chính thức được bản đồ ghi nhận chứ không kể các chợ chồm hổm, chợ chiều, chợ chạy, chợ chìm, chợ đen, chợ… búa. Sài Gòn nhiều chợ kinh khủng, từ lớn lớn như chợ Lớn,  chợ Bến Thành, chợ An Đông đến nho nhỏ như cái chợ phường, chợ xóm, từ chợ bán buôn từng mặt hàng riêng biệt như chợ vải, chợ cá, chợ rau, chợ hóa chất, chợ phụ tùng… đến những cái chợ bán hầm bà lằng xắng cấu như chợ nhỏ, chợ dân sinh..  Dù là chợ gì thì luôn đậm đặc không khí của một Sài Gòn, năng động, tình cảm và phóng khoáng.

Người ta lo ngại cho số phận những cái chợ một khi hệ thống siêu thị bán lẻ tràn ngập khắp thành phố, các siêu thị càng ngày càng lớn, hàng hóa đa dạng, dịch vụ hoàn hảo và rất nhiều tiện ích khác. Nhưng chợ vẫn còn đó, dù vẫn nóng, vẫn dơ, vẫn ồn áo và náo nhiệt, nhưng vẫn không ít khách hơn là mấy, có lẽ vì người ta đi chợ đôi khi không phải để mua hàng, người ta đi chợ như đi thăm người quen vậy, ở đó luôn có thứ tình cảm mà ở siêu thị không có, có lẽ vì người ta đi chợ không phải vì giá ở chợ rẻ hơn, người ta đi chợ để được gặp nhau, được nghe, được nói, được chào hỏi…

Ở Sài Gòn, khi vô trong chợ bạn được coi như người nhà, người ta kêu bạn bằng đủ thứ tên hoặc đại từ nhân xưng. Nếu bạn còn trẻ, bạn thường được gọi là “cưng”, “con”, “em gái”, “chế” hoặc kêu những cái tên do người ta đặt ra như “chị Hai, cô Ba”... Còn nếu lớn tuổi bạn có thể được gọi là “má”, “ngoại” hay “gì Hai, thím Hai” rồi xưng con ngọt xớt.

Ở Sài Gòn, khi đi chợ bạn luôn nhận được những tiếng mời chào dễ thương đến nỗi cho dù có đủ gan từ chối bạn cũng không thể không mỉm cười cảm ơn: “Nè cưng, ngồi xuống ăn ly chè mát đi”, hay: “Má ơi, vô đây con thử đôi guốc này coi vừa chân không má, không mua cũng được”…

Nếu là đàn ông đi chợ với vợ thì bạn cũng được chào mời dù biết bạn chẳng mua gì: “Em trai ngồi ghế chơi đi để chị chọn đồ cho bà xã hen, uống café không để chị kêu”. Nếu vô coi hàng rồi mà không ưng ý thì cũng đừng ra mặt kẻo người bán họ buồn, nếu không ưng thì cứ cảm ơn rồi đi, bạn sẽ vẫn nhận được nụ cười tươi như khi bạn đến: “Bữa khác ghé lại nghen mấy cưng”.

Ở Sài Gòn đi chợ phải ăn mới đúng điệu, chợ nào cũng có hàng ăn, ngay trong chợ hoặc phía sau, bên hông, hoặc giả đâu đó mà bạn không cần biết. Hàng quán đôi khi xập xệ và tạm bợ lại còn trông hơi mất vệ sinh vậy chớ ăn ngon lắm, đồ ăn nóng hổi và đầy đủ gia vị. Thường mỗi hàng một món, có chỗ chuyên bán nước, có chỗ chỉ bán đồ ăn sẵn, nhưng đừng ngại, bạn có thể ngồi ở hàng phở mà kêu tô bún bò cũng có người bưng tới, có thể ngồi ở hàng café mà kêu cơm tấm cũng được phục vụ vui vẻ, cũng có chỗ thì thì bạn có thể uống trà đá miễn phí, đến đã khát thì thôi.

Có lần tôi đi ngang một chỗ bán quần áo ở chợ Bến Thành, thấy chị bán hàng đang ăn bún riêu, tôi buột miệng nói: “nhìn ngon quá”, chị ngước mặt đầy mồ hôi nhìn tôi sởi lởi: “ngon dữ, ăn không, ngồi đây đi em trai, chị kêu vô cho, một phút có liền, ăn đi chị bao mà”. Từ đó tôi là khách của bà bán bún riêu chợ Bến Thành, lần nào ghé cũng 2 tô đúp, tôi có thể nói ai đi chợ Bến Thành mà chưa ăn bún riêu của bả thì coi như chưa biết chợ Bến Thành vậy.

Đi chợ ở Sài Gòn cảm giác lạ lắm, người bán luôn tìm cách làm vừa lòng bạn như không hề vụ lợi, ở chợ bạn được coi như thân tình, như bà con, như bạn bè, bạn có thể trao đổi với người bán về chuyện học của con bạn hay chuyện ông hàng xóm khó chịu của bạn, bạn luôn được lắng nghe và chia sẻ, bạn luôn được động viên và giúp đỡ rất chân tình.

Nếu bạn đang ở hàng quần áo và sực nhớ là muốn tìm một bộ chén thì người bán quần áo sẽ dẫn bạn tới chỗ bán sành sứ và giới thiệu rằng bạn là anh/chị/em/bà cô/ bà dì của họ…rằng bạn phải được mua giá sỉ, rằng bạn là VIP… bạn nghĩ tất cả chỉ là hình thức ư, không hề, thiệt tình đó bạn và bạn không bao giờ cảm thấy phiền vì điều đó, cho dù có mua phải một món hàng bị hớ giá hoặc tìm không ra món đồ mình thích. Bạn sẽ luôn nhận được những món quà bất ngờ cho dù bạn không đòi hỏi, mua chục trái cây được mười lăm, mười sáu trái, mua hai cái áo tặng thêm cái nón, mua có cái bóp được đãi ly cafe... không phải hàng khuyến mãi đâu bạn, đó là tấm lòng, hãy nhận bằng cả tấm lòng.

Có lần tôi mua một sợi dây nịt với giá 200 ngàn, khi đi một vòng tôi phát hiện cũng sợi dây nịt đó được bán chỗ khác với giá 120 ngàn, tôi quay lại cười với gã bán: Nè anh, sợi dây này bên kia bán có trăm hai, sao nãy anh bán tôi hai trăm? Gã cười xềnh xệch: Chắc em lộn giá, thôi để em đền anh cái bóp xịn hen, bóp này hàng hiệu luôn, giá tới năm trăm đó. Tôi coi cái bóp thấy cũng ưng ý, dù biết tỏng nó chưa tới tám chục, cũng vui vẻ cầm. Sau này mỗi lần ghé, gã đều nói, anh cứ đi một vòng, chỗ nào bán rẻ hơn em đền anh gấp đôi, còn bao anh café nữa, thiệt, nói vậy chớ tôi chẳng hỏi ai bao giờ, tôi tin gã.

Vợ chồng tôi trước có hay mua đồng hồ ở cổng chợ Bến Thành, mỗi lần một cặp. Sau này mỗi lần đi vô chợ là chị bán đồng hồ lại kêu lại, nói, thằng Hai, chị để dành cho tụi em cặp này bữa giờ, đẹp lắm, giá gốc luôn, hàng xịn đó. Lần nào cũng một cặp nữa, riết không dám đi cổng chính, toàn quẹo vô chợ từ bên hông chợ, vì đi cổng chính thể nào cũng mua một cặp, không thể từ chối chị được.

Có lần chúng tôi đi du lịch, vợ tôi gặp một phụ nữ khác cũng đi với gia đình, cô bạn kia cũng chào tôi và tỏ ra mừng vui không xiết, thế là hai bên xúm lại, trò chuyện, giới thiệu chồng, con, gia đình rồi cùng ăn uống vui vẻ, tôi cứ nghĩ đó là một cô bạn thân của vợ tôi mà tôi chưa biết. Sau khi chia tay nhau và cùng hẹn sẽ đi Thái Lan, tôi hỏi lại vợ xem bạn này là thế nào thì vợ cười ha hả, anh không nhớ hả, là nhỏ bán túi xách ở chợ Sài Gòn đó.

Không ai có thể nói hết Sài Gòn có bao nhiêu cái chợ. Cũng như không ai có thể nói hết tấm lòng người Sài Gòn. Đôi khi bạn đi chợ không phải để mua bán gì, đôi khi chỉ là để được nghe một câu nói: “Nè cưng, lâu quá không thấy ghé”.

Du lịch, GO! - Theo Đàm Hà Phú (NĐT), internet

Thứ Năm, 14 tháng 6, 2012

Chợ Âm Phủ Đà Lạt

Nói đến Đà Lạt, người ta hay nhắc đến chợ Âm Phủ như một vẻ đẹp về đêm. Tên gọi này xuất hiện từ hồi đèn đường còn chưa có, những người bán đồ ăn khuya tụ tập ở dọc cầu thang từ khu Hòa Bình xuống chợ Đà Lạt.

Mỗi gánh hàng có một ngọn đèn hột vịt thắp bằng dầu lửa, ánh sáng chỉ vừa đủ cho khách thấy gánh hàng có những món ăn gì để lựa chọn. Đêm đến, khi Đà Lạt chìm trong màn sương trắng xóa, nhìn từ xa khu chợ đêm là những đốm sáng bập bùng, le lói của những ngọn đèn dầu và bếp than hồng, gọi chợ Âm Phủ là vì vậy.

Chợ họp từ 7 - 8 giờ tối kéo dài cho đến tận 3 - 4 giờ sáng, khách đến không phân biệt sang hèn, từ những tay chạy xe thồ thức khuya đón khách, người lao công quét đường vừa xong việc, những nhạc công, ca sĩ vừa rời quán bar, vũ trường, đến những cô cậu sinh viên ít tiền lãng mạn, thích lang thang, hay khách du lịch muốn thưởng thức hương vị đêm Đà Lạt.

Quả là thích thú được đến chợ Âm Phủ ăn đêm trong tiết trời lạnh buốt những ngày cuối đông cho đến đầu tháng giêng, dễ được thấy hết cái hay cái đẹp của thành phố này.

Chưa ăn thì thấy lạnh đến run người, ăn xong cảm thấy thật ấm áp. Chợ Âm Phủ xưa nay không bán những món cao sang, cầu kỳ, chỉ là những nồi ốc luộc nóng hổi hay khô cá, khô mực làm mồi uống vài ly rượu gạo, rượu thuốc, hoặc là trứng vịt lộn và những món bún cháo bình thường. Cái thú của chợ là ai nấy có thể thoải mái ra vào, tạt qua ăn một chút lót lòng, ngồi nhâm nhi vài ly rượu, hàn huyên với bạn bè, hay một mình thưởng thức đêm lạnh Đà Lạt.

Bây giờ, chợ Âm Phủ đã được quy hoạch trong khuôn đất khá rộng, nằm dọc từ cửa chợ Đà Lạt đến bùng binh hồ Xuân Hương. Các món ăn khuya ở chợ đêm Đà Lạt cũng phong phú và đa dạng hơn, với đủ các món ăn ba miền như bún bò Huế, mì Quảng, phở Bắc, bánh canh, hủ tiếu Nam Vang... với giá từ 7.000 - 10.000 đồng/tô. Riêng bánh mì ở chợ đêm Đà Lạt đã nổi tiếng từ lâu với món xíu mại cay ngon, giá chỉ 2.000 đồng một ổ. Hai người phụ nữ, một già, một trẻ, vừa nướng bánh, vừa bỏ xíu mại và rau vào bánh mì, nhưng dù khách có mua cả chục ổ một lúc thì cũng chỉ đợi chừng 10 phút là có ngay.

Quanh khu Hòa Bình cũng có các quán ăn đêm đã đi vào tiềm thức của người Đà Lạt và du khách thập phương như miến gà Nga ở đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phở Hiếu đường Trương Công Định, mì Quang Thanh đường Phan Đình Phùng, hoành thánh mì cạnh rạp Ngọc Hiệp, bún bò đường Ấp Ánh Sáng, chè đường Duy Tân...

Có lẽ khó có nơi đâu ta có thể đi dạo thoải mái như ở Đà Lạt. Không xe cộ ồn ào khói bụi, khí trời lại dịu mát, có thể ngắm nhìn cỏ cây hoa lá và đồi núi. Có lẽ chính vì thế mà thú ăn đêm ở Đà Lạt càng trở nên hấp dẫn. Vừa đi dạo ngắm phố đêm, vừa gặm bắp nướng phết mỡ hành hoặc nhâm nhi miếng khoai lang chiên, chuối chiên thơm lừng... Khi đôi chân đã mỏi sau cuộc chinh phục hồ Xuân Hương, có thể dừng lại bên gánh ốc chợ Âm Phủ hay đầu đường Trương Công Định, kêu dăm ba trứng hột vịt lộn, vài đĩa ốc bươu, nghêu luộc ăn với chuối xanh rau thơm chấm với nước mắm gừng, uống xị rượu đế nếp.

Nếu vẫn thấy chưa chắc dạ, hãy làm thêm tô cháo gà. Nhiều người thích ăn phở bò ở Đà Lạt không chỉ vì hương vị phở hơi khang khác mà còn vì ở cách ăn: ai cũng muốn ăn thật nhanh để "đua" với cái lạnh, để mỡ bò không kịp đóng bờ trên vòm miệng.

Nhưng thích nhất là được uống ly sữa nóng thơm lừng mùi đậu xanh, đậu nành hay đậu phộng ở các gánh sữa nằm rải rác trên các con dốc dẫn vào khu Hòa Bình hoặc ven bờ hồ Xuân Hương. Uống sữa đậu nành nóng khi trời lạnh đã trở thành một cái thú của những người dạo phố đêm Đà Lạt. Nhiều người vẫn nhớ lắm hàng sữa đậu nành gần hồ Xuân Hương của ông già với chiếc áo len đỏ đã cũ. Cụ có một cái cassette cũng "cổ lai hy", nhưng tiếng hát Khánh Ly vang lên từ cái máy ấy lại hay lạ lùng. Những hàng bán nước luôn bày sẵn nhiều loại bánh ngọt ăn kèm như bánh su, bánh pía, bánh nướng nhân thơm, nhân dừa để khách ăn lót dạ.

Trên đường Tăng Bạt Hổ ở trung tâm thành phố, bên cạnh hàng nước đậu của chị Hoa còn có các gánh bán hột vịt lộn, kế đó có cháo gà, phở Hiếu cũng mở cửa bán khá khuya. Ngày thứ bảy, chủ nhật, khu Hòa Bình được dành làm phố đi bộ, khách đi chơi về khuya thường tạt qua làm tô phở cho ấm người, hoặc sà xuống gánh hột vịt lộn. Chỗ nào bán thức ăn cũng kèm thêm trà gừng nóng miễn phí, mà dư vị sẽ còn đeo đẳng mãi người đi...

Du lịch, GO! - Theo Khapnamchau

Chợ Gò - Bình Định

Ai đã từng đi chợ Gò, xã Phước Nghĩa, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Ðịnh đều có những kỷ niệm đẹp và khó quên.

Theo phong tục thì mỗi năm chợ chỉ họp hai phiên vào ngày mùng 1 và mùng 2 Tết âm lịch. Chợ họp trên một gò đất cao dưới chân núi Hàm Long bên bờ sông Hà Thành đổ ra đầm Thị Nại vì vậy mà gọi là chợ Gò.

< Lễ hội ở Chợ Gò, Bình Định.

Ðiều kỳ thú ở đây là du khách đi hội chợ bị cuốn hút không chỉ bởi cảnh đẹp mà còn do được dự những sinh hoạt văn hóa độc đáo mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc. Người đi hội chợ mua bán lấy may không mặc cả, không cò kè bớt một thêm hai như chợ hàng hoá ta thường thấy.

Chợ Gò có tính cách hội vui xuân dân gian hơn là phiên chợ. Từ người bán đến khách hàng đều mặc quần áo mới, nói cười vui vẻ, mặt tươi như hoa, các bà các cô phấn son trang sức lộng lẫy như dự lễ cưới. Từ mờ sáng ngày đầu năm chợ đã nhóm, ai đến trước bày hàng trước, ai đến sau kế tiếp thành dãy.

Không ai đứng ra xếp đặt, tổ chức thế mà vẫn trật tự, không hề tranh giành bán buôn theo lối kẻ chợ thông thường. Người bán là những dân cư quanh vùng thu góp trong vườn mớ trái cây, gánh rau cải, vài buồng cau, vài xấp trầu họ đem đến bán lấy hên đầu năm. Người mua không phải là thiếu thức ăn nhưng muốn đem về một cái lộc đầu năm, nhất là gian hàng trầu cau, các cô thường mua cầu may cho năm mới gặp duyên thắm tình nồng.

Vui vẻ nhất là các gian hàng pháo, bán đủ loại nào pháo tre, pháo tống, pháo điển, pháo chuột, pháo dây, pháo thăng thiên, pháo bông... Ðó đây, giọng lái buông chào hàng ngân nga câu vè theo điệu bài chòi:

Mời chư vị giai nhần tài tử
Tới đây nghe tôi thử pháo tre
Của bán ra không phải nói khoe
Thời thực vật sắm vừa túc dụng
Có pháo nhiều đốt mới vui tình
Từ cựu thời bộc trước nhi thinh
Có pháo mới văn minh xuân nhựt
Dưới con cháu cũng vui cũng ức
Trên ông bà khỏi bực khỏi phiền
Nếu như mà cứ giữ tiếc tiền
Lấy gì đặng minh niên hỉ hả...

Các gian hàng bán đồ chơi trẻ em cũng vui nhộn không kém. Ðặc biệt nhất, những sản phẩm làm bằng vật liệu địa phương, thuần túy Việt Nam như gà cồ chút chít nặn bằng đất sét, rỗng ruột, sơn phết xanh đỏ, có lỗ thổi ra tiếng kêu o... o..; trống rung (trống bỏi) thành và cán bằng tre phất bong bóng heo hay da ếch có tra hai cây đính cục chì nhỏ mỗi lần rung tạo âm thanh thật vui tai: thằng nhào lộ; cối xay lúa; cối giã gạo; tướng quân múa võ đều làm bằng tre và gỗ cây gòn. Từ cuối thập niên 60, có xen những đồ chơi bằng nhựa hoặc bằng kim loại như búp bê, xe tăng, tàu bay, súng lục..., có lẽ vì đắt giá hay chưa quen với thị hiếu nên ít thông dụng.

Những gian hàng thức ăn, nước giải khát cũng góp mặt không kém. Các món đặc sản địa phương được khách hàng ưa thích như nem Chợ Huyện của bảy Ù, chim mía ở Lộc Lễ, rượu nếp và rượu gạo ở Trường Thuế (dân chúng quen gọi là Trường Thế đã mãi mãi đi vào ca dao của dân tộc:

Rượu ngon Trường Úc mê ly,
Gặp nem Chợ Huyện bỏ đi không đành.

Ðến với Chợ Gò không những để ăn uống, mua rau quả để lấy lộc, mua pháo để lấy hên đâu năm, hoặc để thưởng thức tài viết chữ "phượng múa rồng bay" trên liễn đối, mà đến với Chợ Gò còn có đủ các trò vui chơi mang màu sắc dân gian như đánh bài chòi, chơi lô tô, giải đáp câu thai, đánh cờ tướng, đá gà... Nếu ai nặng máu đỏ đen thì tha hồ sát phạt ở các sòng bài như xóc dĩa, bầu cua tôm cá, xì lác... nhưng phần lớn họ đến đây để gặp gỡ bạn bè, trao nhau những lời chúc tụng, kéo nhau đi xem chợ và khi mặt trời đứng bóng thì chia tay ra về.

Hội chợ Gò diễn ra tuy ngắn ngủi nhưng ý nghĩa rất lớn vì nó tạo ra không khí vui tươi thoải mái sau một năm miệt mài lao động vất vả và đi vào ký ức người dân nơi đây như một mảng tâm hồn tươi sáng và tìm về với bản sắc dân tộc, tìm về với cội nguồn của chính mình.

Du lịch, GO! - Theo Lukhach24, ảnh internet

Thứ Ba, 12 tháng 6, 2012

Triễn lãm và tranh luận ảnh phụ nữ xưa...

Thiếu nữ Đà Lạt xưa ở trần trong đời thường...

Những bức ảnh "độc" về thiếu nữ người Lạch xưa sống ở trần tại vùng đất Đà Lạt ngày nay đã được nhà nhiếp ảnh nghiệp dư Lê Phỉ (82 tuổi, hiện trú tại đường Hai Bà Trưng, TP Đà Lạt) ghi lại với những khoảnh khắc rất đời thường cách đây tròn 60 năm.

< Bên mái hiên nhà...

Theo cụ Phỉ, thời đó người Lạch - một tộc người có mặt đầu tiên ở Đà Lạt - vẫn còn sinh sống ở những vùng ven Trung tâm TP Đà Lạt ngày nay. Hằng ngày, họ vào rừng săn bắn, kiếm củi gùi ra trung tâm TP Đà Lạt bán cho người Kinh lấy tiền mua thực phẩm.

Tây nguyên huyền diệu
Tư liệu ảnh quý về Tây nguyên ngày xưa

< Theo điệu kèn bầu...


< Theo cụ Lê Phỉ, người Lạch ở Đà Lạt xưa kia xem việc không mặc áo là bình thường.

Thời điểm này, những chàng trai, cô gái người Lạch coi chuyện không mặc quần áo là điều bình thường, họ thả sức ngắm nhìn cơ thể gợi cảm của nhau, trai gái yêu nhau thường ra rừng tâm sự, nhưng tuyệt nhiên không có chuyện “ăn cơm trước kẻng”.

< Một thiếu nữ tỏ ra e ngại trước ống kính máy ảnh, vội vã bỏ chạy khỏi dòng suối đang tắm (Không hẳn họ e ngại vì bị chụp ảnh - cái sợ ngày ấy do quan niệm máy ảnh có thể 'bắt hồn').

Vào mỗi buổi chiều, trên đầu nguồn con suối Lạch dẫn về hồ Xuân Hương ngày nay lại nhộn nhịp tiếng cười đùa, trêu chọc của những thiếu nữ, chàng trai. Họ khỏa thân tắm chung hồn nhiên như những đưa trẻ lên 3 mà không phút bận tâm chuyện mình đang không một mảnh vài che thân.

< Cô gái nhỏ ở trần ngồi dệt lụa và rất tự tin trước ống kính. Cụ Phỉ cho biết, bức hình này cụ chụp tại một gia đình thuộc ngoại ô Đà Lạt vào sau năm 1954.

< Một phụ nữ tai căng tròn, đang địu con (cháu) trên lưng được cụ Phỉ chụp tại khu vực giáp ranh giữa TP Đà Lạt và huyện Lạc Dương ngày nay.

< Chàng trai người Lạch đeo khuyên tai, cầm tẩu hút thuốc trông dáng vóc uy nghi như một tù trưởng được miêu tả trong các sử thi Tây Nguyên.

< Thời bấy giờ, nam nữ người Lạch đều có một tẩu hút thuốc.

< Một con voi đưa người qua suối Lạch về bản.

Tranh luận về ảnh khỏa thân thời Pháp thuộc

“Chất lượng ảnh đã giảm sút do bị chụp lại nhiều lần, song những gì còn lại vẫn cho thấy bản gốc rất đẹp” - nhà nhiếp ảnh Hữu Bảo nói về những bức ảnh nude thời Pháp thuộc.

Không phải nhân học hình ảnh

Những bức ảnh phụ nữ Việt khỏa thân này nằm trong số hàng nghìn bức ảnh về Việt Nam dưới thời Pháp thuộc của nhà nhiếp ảnh nổi tiếng người Pháp Pierre Dieulefils (1862-1937).

Sau đó, chúng được nhà sưu tập bưu ảnh nổi tiếng người Pháp Philippe Chaplain mua và lưu giữ. Ông Philippe Chaplain đã cho Tạp chí Xưa và Nay mượn bộ sưu tập của mình.

Theo quan điểm của ông Hữu Bảo, những bức hình đó rất chuẩn về bố cục lẫn ánh sáng, đường nét, đồng thời sinh động. Các ảnh này đã được trưng bày trong triển lãm Để hiểu hơn về một Hà Nội xưa do Tạp chí Xưa và Nay phối hợp với Thư viện Hà Nội tổ chức hồi đầu năm 2010.

Tuy nhiên, những ảnh nude này cũng gây tranh cãi. Những tranh luận về nhóm ảnh khỏa thân chủ yếu xoay quanh việc các nhân vật trong ảnh liệu có bị ép buộc cởi đồ để chụp những bức hình hở hang như thế hay không.

Thậm chí, có ý kiến còn cho rằng đó là những tấm hình dàn dựng phi thực tế trong chủ ý dã tâm của người Pháp. Người dân do đó phải tuân thủ mệnh lệnh “bắt cởi phải cởi, bắt chết phải chết” của chủ.

Ý kiến ngược lại cho rằng những bức ảnh đó chỉ là tác phẩm của những người muốn Á Đông hóa, An Nam hóa đề tài nude - một đề tài mỹ thuật hàn lâm vốn luôn được mến chuộng. Bố cục của các tác phẩm cũng được phân tích là quen thuộc và nhan nhản trong nghệ thuật cổ điển. TS Đào Thế Đức - thư ký tòa soạn Tạp chí Xưa và Nay, nói: “Giờ đây, nếu nhìn tổng thể những bức ảnh đó, chúng ta cũng không thể nói đích xác chúng được bố trí hay không và bố trí đến đâu”.

Tuy nhiên, theo TS Đức, đó chắc chắn không phải là những tư liệu nhân học hình ảnh. Ông cho biết: “Nhân học hình ảnh phải do người dân tự thể hiện. Nhờ đó, những bức ảnh, thước phim cho thấy rõ người dân thực sự muốn thể hiện mình ra sao. Nó hoàn toàn không phải cái nhìn của người ngoài cuộc. Trong khi điều thấy rõ trong những bức ảnh này chính là cái nhìn của phương Tây về phương Đông. Qua cái nhìn đó, phương Đông trở nên hơi kỳ quặc, lạ lẫm, thậm chí có phần nào lạc hậu”.

TS Đức cho rằng những tác phẩm này không chỉ không do người dân tự chụp mà còn ít khả năng do người Việt chụp. Nó chính là những bức ảnh do người Pháp chụp với tinh thần Tây phương dễ nhận thấy. “Thời đó, chắc chỉ có mấy ông Tây mới bắt đàn bà con gái lột trần ra chụp ảnh như vậy thôi”.

Hoàn toàn không gợi dục

Song, điều kỳ lạ là những bức nude trên hoàn toàn không có tính gợi dục. “Tôi đã nói chuyện với một số người trong triển lãm, nhưng không ai cho rằng những tác phẩm này dung tục cả”, ông Hữu Bảo cho biết. Tuy nhiên, những tạo hình khó có thể coi là như trong cuộc sống thông thường. Một người mẫu gánh nước nhưng yếm lại trật ra hở ngực. Mấy phụ nữ cùng ngồi quanh tẩu thuốc và cũng hở ngực một cách lạ thường.

Bản thân TS Đào Thế Đức cũng khá ngạc nhiên vì sự “cởi trói” của những mẫu nữ trong khuôn hình. “Chúng ta có văn hóa phồn thực. Nhưng sự phồn thực này nằm trong các nghi lễ, mà phần nhiều được nhà nghiên cứu Toan Ánh ghi lại thành sách. Tuy nhiên, nếu ngoài nghi lễ phồn thực thì mọi chuyện lại rất khe khắt. Chính vì thế, nếu người phụ nữ có thai sau lễ hội phồn thực làng La thì không sao, thậm chí còn được coi là may mắn. Nhưng nếu bình thường, người phụ nữ đó chắc chắn khó thoát khỏi hình phạt gọt đầu bôi vôi”.

Một vài khuôn mặt lặp lại của thiếu nữ nude tại một số bức ảnh dạng tư liệu khác khiến nhà nhiếp ảnh Hữu Bảo nghĩ đến việc đây chính là người mẫu. Tuy nhiên, tại sao họ lại dám chụp những bức ảnh không có điểm gì chung với Nho giáo như vậy, điều này cũng còn bí ẩn. Nhưng dù sao đi nữa, những ảnh nude này vẫn mang giá trị tư liệu đặc biệt. Nhất là khi chúng còn được người Pháp dùng làm bưu thiếp - một phương tiện truyền tải thông tin, quảng bá nghệ thuật và tuyên truyền tư tưởng vào thời thuộc địa.

“Rõ ràng đây là những hình tư liệu quý. Giờ đây, điều dễ thấy nhất là về nhân chủng học người Việt đã thay đổi quá nhiều”, ông Hữu Bảo đánh giá. Cũng theo nhiếp ảnh gia này, “trong những bức hình nude thời đó những khuôn mặt người Việt to và bè hơn chứ không thanh thoát như bây giờ. Ở một vài khuôn hình, chúng ta còn thấy khuôn mặt họ hơi nhô ra và có nét gãy. Căn cứ vào các đồ vật để so sánh, chiều cao của họ cũng chỉ khoảng 1 m 50.

Rõ ràng nếu đặt trong tương quan với chúng ta bây giờ, những bức nude này cho thấy sự khác biệt thú vị. Và cũng vì thế, tôi rất thích cách thể hiện của tác phẩm. Bằng cách chọn những phụ nữ rất dung dị, họ không vệ nữ hóa ảnh nude mà chọn cách thể hiện đúng người Việt, theo tinh thần Việt, theo đúng tỷ lệ của người Việt. Đây chính là cách mà danh họa Nguyễn Phan Chánh vẽ Tiên Dung - Chử Đồng Tử sau này. Nếu nói đến eo thon, tỷ lệ vàng thì không phải. Nhưng toàn bộ tác phẩm nói lên được một tinh thần Việt Nam và dễ được chấp nhận”.

Trong những bức ảnh đó, các thiếu nữ nhìn thẳng không e ngại. Nhưng họ cũng không hề có các tạo dáng khó, phô diễn đường cong lựa theo ánh sáng. Chúng gợi một cảm giác mộc mạc, chân phương, dễ mến. “Đây là phong cách chụp rất phổ biến của những bức ảnh nude chụp vào thế kỷ 19”, nhiếp ảnh gia Ngô Xuân Phú - cũng là người đã theo học nhiếp ảnh tại Hà Lan trong 2 năm, cho biết.

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ Khắc Lịch (Bee), Trinh Nguyễn (báo Thanhnien) và nhiều nguồn ảnh cổ khác.

Chủ Nhật, 10 tháng 6, 2012

Nữ quyền ở buôn M'Nông

Quan niệm tự ngàn xưa đã truyền, trong buôn làng của đồng bào M'Nông (huyện Đăk R’lấp, tỉnh Đăk Nông), bao giờ người phụ nữ cũng được ưu ái, được ban cho nhiều quyền lực.
Người phụ nữ được ban quyền lực bởi họ có thiên chức, đặc điểm do thần linh ban tặng, là hiện thân của sức sống, sự sinh sôi nảy nở. Vị trí "nữ quyền" thể hiện rất rõ nét trong quan hệ hôn nhân theo chế độ mẫu hệ của đồng bào M'Nông, ở đó người phụ nữ đóng vai trò chủ đạo.

Bước vào tuổi trưởng thành, sau nghi lễ "cà răng, căng tai", các cô gái có quyền được yêu, được lập gia đình. Thích chàng trai nào, họ sẽ dùng nhiều cách để đánh tín hiệu và khi được đáp lại bằng món đồ làm tin là một cái lược, một chuỗi hạt hoặc một vòng đeo tay thì tức là chàng trai cũng đã ưng dạ.

Được cô gái đồng ý, chàng trai sẽ về thông báo với bố mẹ để nhờ ông mối đem lễ vật sang nhà gái xin làm lễ dạm hỏi trước khi tổ chức lễ cưới.

Một thủ tục đặc biệt quan trọng đó là nhà trai cũng như chú rể phải đứng cam kết trước bàn thờ tổ tiên nhà gái và mọi người dự lễ là yêu thương, trân trọng, chung thủy với cháu gái của họ suốt đời. Sau lễ cưới còn có lễ rước rể vào ngày hôm sau.

Cưới xong, đôi vợ chồng trẻ phải ở trong nhà 7 ngày, không được ra khỏi nhà. Sau đó, họ trở về nhà trai 7 ngày và trở về bên nhà gái ở trọn đời.

Người M'Nông quy ước hôn nhân một vợ một chồng và luôn thiên theo hướng bảo vệ lợi ích của người phụ nữ, phạt rất nặng những người chồng dám bỏ bê vợ con, chểnh mảng công việc làm ăn hoặc phản bội. Nếu người chồng vì một lý do nào đó mà muốn từ bỏ vợ mình thì những của cải, vật chất họ phải nộp phạt bao giờ cũng sẽ gấp đôi số sính lễ ban đầu.

Riêng đối với những phụ nữ không may lấy phải ông chồng lười biếng, hư đốn, ruồng rẫy vợ con (có sự thừa nhận của cộng đồng) thì luật tục M'Nông cho phép người vợ ấy có quyền thừa hưởng mọi của cải để nuôi con và đi lấy chồng khác. Luật tục như vậy nhưng rất ít trường hợp phụ nữ M'Nông bỏ chồng bởi một mái ấm hạnh phúc luôn là giấc mơ của phụ nữ M'Nông.

Du lịch, GO! - Theo Danviet, internet

Bài đăng phổ biến