Hiển thị các bài đăng có nhãn Di tích lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Di tích lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 27 tháng 6, 2012

Di tích miếu Khau Roỏc

Xóm Khau Roỏc, phường Đề Thám (Thị xã) được hình thành vào khoảng cuối thế kỷ XIX. Do vị trí cách đường quốc lộ không xa, nhưng lại tương đối biệt lập, có khe dốc, đồi cao, kinh tế trù phú, việc phòng thủ, tiến thoái theo các hướng đều rất thuận lợi nên Khau Roỏc luôn gắn liền với lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân các dân tộc của tỉnh Cao Bằng.

Trong thời kỳ Mặt trận Việt Minh (1942 - 1943), Khau Roỏc là cơ sở hoạt động cách mạng tin cậy, quen thuộc của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Tổng bộ Việt Minh Cao Bằng. Những ngày tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Thị xã (ngày 20 - 21/8/1945), xóm Khau Roỏc là nơi điều hành của Uỷ ban Khởi nghĩa tỉnh và Sở chỉ huy của Chi đội Quân giải phóng của đồng chí Hoàng Đình Giong - Trưởng Ban khởi nghĩa tỉnh, mới chuyển từ Bản Ngần sang.

Tại đây, đồng chí Hoàng Đình Giong thay mặt Uỷ ban Khởi nghĩa tỉnh gửi thư thông báo cho quân Tưởng (Trung Quốc) chỉ được phép dừng lại ở chân núi Kỳ Sầm, không được tiến quân vào Thị xã; quân Nhật đồng ý giao lại súng cho quân giải phóng. Cũng từ Khau Roỏc, Uỷ ban Khởi nghĩa tỉnh đã điều động xe ô tô vào Thị xã vận chuyển súng ra làng Thôm Hoáng, xã Hạ Hoàng (nay là phường Đề Thám). Những ngày này, Ban Nông hội cứu quốc xã đã vận động nhân dân quyên góp lương thực, thực phẩm chuẩn bị sẵn sàng để phục vụ cho Đại đội quân giải phóng rút từ Thị xã về.

Từ năm 1950 - 1955, xóm Khau Roỏc là địa điểm chứa kho lương thực của Cục Quân lương Tổng cục Cung cấp và là nơi đóng quân lâu dài của các đơn vị lực lượng vũ trang, sau này xóm là kho của Chi sở Lương thực trong thời gian dài, phục vụ công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi cuối cùng.

Tháng 3/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm và làm việc tại xóm Khau Roỏc. Sự kiện ấy được lịch sử ghi chép lại: Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ hai (tháng 2/1951), Bác Hồ lên đường đi phổ biến thành công của Đại hội, đi thị sát việc mở đường, sửa đường, đi thăm bộ đội, dân công, thanh niên xung phong. Cùng ngày 28/03/1951, Bác lên đến Cao Bằng, khoảng 3 giờ chiều, Bác đến miếu Khau Roỏc. Tại đây, các đồng chí Dương Công Hoạt, Bí thư Tỉnh ủy; đồng chí Hồng Kỳ, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính tỉnh cùng hơn 100 cán bộ tỉnh, huyện, xã Đề Thám đã tề tựu đông đủ để nghe Bác phổ biến Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II. Nói chuyện và làm việc tại xóm Khau Roỏc, Bác ở nhà ông Nguyễn Văn Phổi (thường gọi là bác Tàng), lúc đó xóm chỉ có chín hộ dân.

Trước đây miếu được xây bằng đất trình tường ba mặt, mặt trước để trống, mái lợp ngói máng âm  - dương, cao khoảng hơn 2 m, bên trong để một bát hương sát tường phía sau. Hướng miếu nhìn về phía đông hơi chếch về phía nam. Đằng sau là một dải sườn đồi dốc 45o, đỉnh cao 250 m so với mặt biển. Có tuyến đường dân sinh từ xóm Khau Roỏc theo dải sườn dốc qua, cách miếu khoảng 50 - 60 m, là tuyến đường đi đến khu Nà Vạn và đường giao thông đi Khuổi Kép, Khau Phước, Nà Kép, Bản Sẳng. Hiện tại di tích miếu thần (slấn) Khau Roỏc chỉ còn lại mặt bằng rộng khoảng 4 x 5 m, còn một dấu tích tường trình cao 15 - 20 cm, dài 2 m của dãy tường phía bắc (cũ).

Miếu Khau Roỏc được công nhận là Di tích lịch sử theo Quyết định số 520/QD-VX-UB ngày 19/4/2001 của UBND tỉnh.

Du lịch, GO! - Theo Thu Trang (Báo Cao Bằng)

Thứ Tư, 20 tháng 6, 2012

Trầm mặc tháp Chăm

Di tích tháp Poklongarai (Po Klong Garai) là quần thể tháp Chàm được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 13 đầu thế kỷ 14, nằm trên đồi Trầu, (Phan Rang - Tháp Chàm, Ninh Thuận). Đây là một công trình độc đáo, được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật và điêu khắc Chăm.

< Cổng vào tháp Po Klong Garai.

Quần thể này gồm ba tháp: Tháp chính (nơi vua ở, cao 20,50 m, dài 13,80 m, rộng 10,71 m - đây là tháp để thờ phượng và hành lễ trong năm); Tháp lửa (bếp lửa của vua, cao 9,13 m, dài 8,18 m, rộng 5 m) và Tháp cổng (nơi vua tiếp khách, cao 5,65 m, dài 5,10 m, rộng 4,85 m) được xây dựng để thờ vua Poklongarai (poklongarai là tên gọi của dân tộc Chăm đối với Vua SINHAVARMAN III (tên hiệu tiếng Phạn) trị vì, từ 1152 đến 1205 - vị vua có công lớn trong việc xây dựng hệ thống dẫn thủy ở địa phương.

Theo truyền thuyết của dân tộc Chăm, có một cặp vợ chồng nông dân nhìn thấy một đứa trẻ sơ sinh nằm trên bọt nước, trôi từ thượng nguồn dòng sông Dinh (chảy qua địa phận huyện Ninh Sơn và qua thị xã Phan Rang - Tháp Chàm đổ ra bể). Tiếng khóc của đứa trẻ đã làm động lòng cặp vợ chồng làm rẫy gần đấy và họ đã đem bé về nuôi. Họ đâu biết, đứa trẻ này được bề trên phái xuống để thử lòng dạ người trần.

Trời làm cho đứa bé bị ghẻ lở đầy người, mà các thầy thuốc giỏi trong vùng đều không thể chữa khỏi, cốt ý để xem cặp vợ chồng này đối xử như thế nào với đứa bé. Sau đó, trời cho Rồng vàng xuống trần, liếm hết những vết ghẻ lở trên người của cậu bé đang chăn trâu rồi nằm nghỉ trưa ở ngoài đồng. Cậu bé sau đó trở nên khôi ngô tuấn tú khác thường... Sau khi vị vua trị vì mất, nghe lời của một vị chiêm tinh, cậu bé (sau này đã trưởng thành) được phong làm vua, lấy tên hiệu là Poklongarai...

Huyền thoại dân tộc Chăm ở Ninh Thuận còn gắn liền với sự nghiệp xây dựng tháp và giữ đất của vua Poklongarai khi người Tàu đến chiếm đất của người Chăm. Theo truyền thuyết, vua Tàu và vua Chăm đưa ra một cuộc thi xây tháp, bên nào xây xong tháp trước trong thời gian đã quy định thì bên ấy được ở lại giữ đất, ngược lại bên nào xây chậm hơn thì phải rút quân đi. Vua Tàu đốc thúc quân lính đào đất nung gạch, xây tháp suốt bốn tháng trời mà tháp vẫn chưa xong.

Trong khi đó vua Poklongarai thì ung dung thong thả. Vào đêm cuối cùng của thời giao hẹn, Poklongarai mới cho quân dựng lên một khung tháp với chất liệu gỗ và trét phên tre lên rồi phủ thêm vải đỏ bên ngoài. Đến sáng ngày hôm sau quân Tàu từ xa đã trông thấy tháp của vua Chăm trụ sừng sững trên đồi mà không hiểu vua Chăm đã có phép lạ gì mà xây tháp nhanh như thế. Không biết mình đã bị lọt bẫy vì cái kế: "Xây tháp giả bằng gỗ" của Poklongarai. Cuối cùng, vua Tàu đành phải chấp nhận rút quân đi khỏi đất của người Chăm như đã giao kết.

Di tích tháp Poklongarai gắn liền với tín ngưỡng truyền thống của đồng bào Chăm ở địa phương. Hằng năm, nhân dân Chăm đều tổ chức các ngày lễ hội ngay tại tháp để tưởng nhớ đến công ơn của vị vua Poklongarai.
Mỗi năm, đồng bào Chăm có bốn lễ hội đặc biệt với những nghi thức riêng, bao gồm: Lễ Đầu năm (vào tháng giêng theo lịch Chăm) là lễ mở cửa tháp để bắt đầu một năm mới với những thành quả mới của dân tộc mình; Lễ cầu mưa (vào tháng 4 theo lịch Chăm) là lễ cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi.

Lễ hội Katê (tổ chức vào tháng 7 theo lịch Chăm), đây cũng được xem là lễ Tết lớn nhất trong năm của đồng bào Chăm. Trong lễ hội Katê, tất cả những người Chăm hiện đang sinh sống ở nhiều miền quê khác nhau đều hội tụ đông đủ về đây để gửi gắm những tâm sự thiêng liêng của mình và của gia đình đối với tổ tiên. Trong suốt 3 ngày diễn ra lễ hội, du khách đến tham quan còn được thưởng thức điệu múa quạt, vũ điệu siva thướt tha dịu dàng của các cô gái Chăm cùng với nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống độc đáo khác. Cuối cùng là Lễ Chabun (tổ chức vào tháng 9 theo lịch Chăm) đây là ngày lễ cha, theo tín ngưỡng của đồng bào Chăm.

Nếu có dịp ghé thăm khu di tích Tháp Poklongarai, du khách sẽ được thưởng thức những đường nét ngoạn mục với lối kiến trúc hình vòm, hình chóp nhọn, phù điêu trang trí mượn của nền văn hóa Chămpa cổ và văn hóa dân tộc Việt, được thưởng thức cái nắng và gió hơi "ngang tàng" nhưng rất đặc biệt của xứ sở Ninh Thuận này.

Từ tháng 3 chớm vào hè đến hết tháng 8 khá đông khách nội địa, ngày lễ có khi tới vài nghìn người tham quan. Từ tháng 9 cho đến tháng 2 năm sau thì phần lớn là khách nước ngoài đi theo tour, gần như không có khách Việt. Vé vào tham quan đồng hạng 10.000 đồng/lượt.

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ Thị Trường, Laodong

Thứ Hai, 11 tháng 6, 2012

Tham quan Địa đạo Khe Trái ở Thừa Thiên – Huế

Địa Đạo Khe Trái là một trong những di tích lịch sử chứng minh hùng hồn sự kiện lịch sử đặc biệt điển hình của quân và dân Trị Thiên Huế trong quá trình chuẩn bị, chiến đấu và kết thúc chiến dịch tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân Mậu Thân 1968.

Địa đạo là một kiểu trụ sở của Bộ chỉ huy chiến dịch, một kiểu “Cơ quan” của Quân khu, của Khu ủy và Thành uỷ Huế được xây dựng ở vùng rừng núi, góp phần làm phong phú và đa dạng các loại kiểu Địa đạo của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thể hiện sự thông minh, sáng tạo của Công binh Quân khu Trị Thiên Huế trong việc xây dựng căn cứ cách mạng, làm giàu thêm kho tàng nghệ thuật quân sự, nghệ thuật chiến tranh nhân dân của quân đội ta.

Địa đạo Khu Uỷ Trị Thiên Huế nằm ở đồi 160 (đồi nằm ở độ cao 160m so với mặt nước biển) thuộc địa bàn phường Hương Vân, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế.Ngoài trọng trách là cơ quan tối cao chỉ huy cuộc tổng tấn công nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 trên chiến trường Trị Thiên Huế, là chiếc cầu nối giữa ý đồ chiến lược của Trung ương và thực tế chiến trường. Khu uỷ Trị Thiên Huế đã sử dụng địa đạo như một đại bản doanh, nhất là thời kỳ chuẩn bị và sau chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968, tại địa đạo này đã diễn ra nhiều cuộc họp quan trọng của Khu uỷ Trị Thiên Huế. Địa đạo có 3 cửa đều nằm trên triền dốc của đồi 160.

Từ ba cửa số 1, 2, 3 đi vào bên trong là lòng địa đạo. Theo kết quả đợt khảo sát, khai thông vào tháng 3 năm 1997 thì cửa địa đạo số 1 có chiều cao là 1,5m; chiều dài 54m; chiều rộng 1m, cửa địa đạo số 2 có chiều cao là 1,5m; chiều dài 45m; chiều rộng 0,9m, cửa địa đạo số 3 có chiều cao là 1,4m; chiều dài 32m; chiều rộng 0,9m. Ở trong lòng địa đạo còn có các hầm ngủ, đặc biệt là hầm hội họp: có chiều cao 2m; chiều dài 4m, chiều rộng 2m. Ở các vách trong lòng địa đạo còn có các cây củi khô, theo các nhân chứng cho biết thì nó được dùng làm trụ để mắc võng cho các cán bộ chiến sĩ nghỉ ngơi trong địa đạo.

Những giá trị về khoa học và lịch sử của địa đạo là bài học quý giá trong công tác giáo dục truyền thống, tuyên truyền trong mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ hiện nay, giúp họ hiểu được những giá trị đích thực về cuộc kháng chiến vô cùng gian khổ, nhưng cũng hết sức vẻ vang của lớp lớp thế hệ ông cha ta không tiết xương máu đã ngã xuống để giành được độc lập tự do hôm nay.

Ngoài những giá trị khoa học, lịch sử di tích này còn có giá trị về tinh thần của cán bộ, chiến sĩ đã từng sống và chiến đấu ở mảnh đất này. Những giá trị về khoa học và lịch sử của địa đạo là bài học quý giá trong công tác giáo dục truyền thống, tuyên truyền trong mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ hiện nay, giúp họ hiểu được những giá trị đích thực về cuộc kháng chiến vô cùng gian khổ, nhưng cũng hết sức vẻ vang của lớp lớp thế hệ ông cha ta không tiết xương máu đã ngã xuống để giành được độc lập tự do hôm nay. Đó cũng là cơ sở bước đầu cho công tác tôn tạo, bảo tồn và phát huy tác dụng di tích cho những năm tháng tiếp theo. Di tích còn mở ra một khả năng mới trong lĩnh vực tham quan du lịch…

Du lịch, GO! - Theo Tintuc Dulich, internet

Chủ Nhật, 10 tháng 6, 2012

Về Bạc Liêu, dạo “phố Tây”

Tỉnh Bạc Liêu đang lập hồ sơ, đưa vào diện trùng tu, bảo tồn 21 ngôi nhà cổ phong cách kiến trúc Pháp để cho vào tuyến điểm du lịch phục vụ du khách. Đó là những ngôi nhà cổ nằm dọc bờ sông Bạc Liêu. Tất cả đều có tuổi đời gần trăm năm.

< Nhà Công tử Bạc Liêu xưa, bây giờ là khách sạn.

Đi trên đường Hai Bà Trưng (P.3, TP Bạc Liêu), du khách sẽ được tham quan Thư viện Bạc Liêu, một ngôi nhà cổ được xây từ những năm đầu thế kỷ 20. Ít người biết rằng đây là ngôi nhà của ông Trần Văn Chương, thân sinh bà Trần Lệ Xuân, vợ cố vấn Ngô Đình Nhu.
Kế Thư viện Bạc Liêu là bảo tàng tỉnh cũng là một ngôi nhà cất theo kiểu Tây. Trong bảo tàng trưng bày hình ảnh người dân Bạc Liêu xưa qua các thời kỳ xây dựng và phát triển, đặc trưng văn hóa dân tộc Kinh, Khmer, Hoa tại Bạc Liêu.

Đặc biệt, rất nhiều cổ vật đặc trưng nền văn hóa Óc Eo thời vương quốc Phù Nam được sưu tầm và lưu giữ tại đây.

Ông Nguyễn Chí Thiện cho biết tỉnh đang lập hồ sơ, đưa vào diện trùng tu, bảo tồn 21 ngôi nhà cổ mang phong cách kiến trúc Pháp và đưa vào tuyến điểm du lịch phục vụ du khách.

Trong đó có nhà ông Cao Triều Chánh (trụ sở Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh cũ), nhà luật sư Lý Bình Huê (nay là tòa soạn báo Bạc Liêu), nhà ông chánh tòa (nay là CLB hưu trí)... Riêng dãy nhà sáu căn cặp sông Bạc Liêu, xưa là dãy nhà phố của ông Trần Trinh Trạch, cha công tử Bạc Liêu, nay sẽ được trùng tu, sửa chữa thành khu “phố Tây” nối liền Nhà lớn để du khách tiện đường tham quan mua sắm.

Không chỉ tham quan, thông qua những ngôi nhà cổ này, các du khách có “máu” sưu tầm, nghiên cứu kiến trúc nhà Tây và tìm hiểu lịch sử sẽ hiểu thêm nhiều câu chuyện lý thú về cuộc sống, con người ở vùng đất mà từ năm 1882, vị quan chủ tỉnh Lamothe de Carrier đã báo với thống đốc Nam kỳ rằng: “...trong tương lai sẽ nhanh chóng trở thành thành phố lớn nhất của Nam kỳ, sau Sài Gòn”.

Ghé nhà công tử Bạc Liêu

Ngôi nhà nổi tiếng trên đường Điện Biên Phủ (P.3, TP Bạc Liêu) hiện được trùng tu sửa chữa để đón khách tham quan. Buổi tối, đứng trên cầu Quay nhìn qua du khách sẽ chiêm ngưỡng được hết vẻ đẹp cổ kính và uy nghi của ngôi nhà. Nhà quay mặt ra bờ sông, bốn phía đều có cửa sổ.

Ngôi nhà thường được đông đảo khách dừng chân tham quan bởi toàn bộ vật liệu xây dựng như thép đúc, cửa, cẩm thạch lát nền, gạch, khung sắt trang trí... đều từ Pháp chở qua. Từ bùloong, ốc vít đến các chi tiết xây dựng đều được đóng dấu chìm chữ “P” hoa mỹ, chứng thực sản xuất tại thủ đô Paris hoa lệ.

Bên trong nhà hiện còn lưu giữ một số hiện vật của công tử Bạc Liêu như bình, lọ gốm sứ, bàn ghế cẩn ốc xà cừ, đặc biệt là chiếc điện thoại cổ cậu Ba Huy sử dụng lúc đương thời.

Theo ông Nguyễn Chí Thiện, giám đốc Sở VH-TT&DL tỉnh Bạc Liêu, ngôi nhà sẽ được trùng tu theo hướng phục dựng cảnh sinh hoạt của gia đình công tử Bạc Liêu thời đó. Du khách ghé chơi sẽ được sử dụng đồ dùng, các phòng trong nhà như sống lại không khí sinh hoạt thượng lưu của gia đình giàu có, thế lực một thời này.

Ngoài ra, du khách còn được chụp ảnh chung với ông Trần Trinh Đức, con trai còn lại duy nhất của công tử Bạc Liêu, đang sống ở quê nhà.

Phủ thờ dòng họ Cao Triều

Từ trung tâm TP Bạc Liêu, đứng trên cầu Quay nhìn qua mé trái sông Bạc Liêu là thấy ngay căn nhà của dòng họ Cao Triều (đường Đống Đa, P.5, TP Bạc Liêu).

Nhà có kiến trúc kiểu Tây pha trộn kiến trúc Trung Hoa với nét đường bệ, nền đúc cao, quét vôi vàng, bao quanh là tường rào bằng sắt và cổng vào rộng lớn. Nhà có ba cửa gồm một cửa chính ở giữa, hai cửa phụ hai bên. Vòm cửa hình bán nguyệt, tường xây cao theo kiểu giấu mái. Nét độc đáo ở mặt dựng ngôi nhà là có khắc hình lưỡng long tranh châu ngay trên cửa chính. Bên cạnh cửa là bốn cây cột đứng hàng ngang, trên có hình điêu khắc các biểu tượng thần linh hết sức tinh xảo.

Trong nhà, cách bài trí và đồ dùng đều được giữ nguyên trạng. Giữa phòng khách, gian chính ngôi nhà là bộ bàn ghế cổ xưa cẩn ốc xà cừ lấp lánh. Kế đó là hai bộ trường kỷ bằng đá cẩm thạch trắng dày cả tấc, ngồi lên nghe mát lạnh. Nhìn vào trong, gian thờ còn nguyên bộ khánh thờ chạm trổ công phu, trên hàng cột gỗ mun là hàng câu đối sơn son thếp vàng. Trên bàn thờ có lẽ khó tìm đâu ra bộ lư đồng lớn, được coi là độc nhất vô nhị xứ Nam kỳ lục tỉnh thời bấy giờ.

Điều đáng trân trọng chủ nhân ngôi nhà vốn là một nhân sĩ trí thức yêu nước: ông Cao Triều Phát - nguyên ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tại đây, du khách cũng biết thêm về gia phả dòng họ Cao Triều, những nhân vật lịch sử gắn liền với tiến trình hình thành và phát triển tỉnh Bạc Liêu.

Du lịch, GO! - Theo Thanhnien

Khi Bạc Liêu thành lập tỉnh năm 1882, chính quyền lúc bấy giờ đã tiêu tốn khá nhiều tiền để xây cất dinh thự, công sở làm việc như Tòa bố Pháp (nay là trụ sở Nhà thiếu nhi và Hội Cựu TNXP), Tòa Tham biện Pháp (nay là Hội Văn học nghệ thuật),…. Cùng với chính quyền, xứ sở Bạc Liêu còn hình thành khá nhiều biệt thự, nhà cao cấp được các địa chủ, điền chủ, tư sản của địa phương xây cất theo lối kiến trúc phương Tây.

Đó là những tòa nhà dọc dài theo bờ sông Bạc Liêu như nhà Ông Vưu Tụng (Huyện Sổn) xây năm 1906, nhà công tử Bạc Liêu xây dựng năm 1919, nhà Ông Trương Xuân xây dựng vào đầu thế kỷ XX; nhà Ông Võ Văn Giỏi (nay là Thư viện tỉnh) xây dựng năm 1930; xa xa bên kia bờ sông có nhiều căn nhà Tây nhưng mang nhiều nét Á Đông như nhà Ông Cao Triều Chánh (trụ sở Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh cũ) xây dựng năm 1930, nhà Bà Chung Tố Anh xây dựng năm 1913, nhà Ông Cao Triều Phát (nay là Trung tâm Y học dự phòng thành phố Bạc Liêu) xây dựng năm 1938, nhà Ông Cao Triều Trực (nay là Phòng Y tế thành phố Bạc Liêu) xây dựng năm 1925, đặc biệt có phủ thờ dòng họ Cao sang trọng, cổ kính vang tiếng một thời được xây dựng năm 1879.

Người ta không quên những ngôi nhà Tây có kiến trúc đẹp như nhà luật sư Lý Bình Huê (nay là Tòa soạn Báo Bạc Liêu) xây dựng trước 1945, nhà Chánh Tòa (nay là CLB hưu trí) xây dựng năm 1910, đặc biệt là ngôi nhà của Ông Trần Văn Chương, thân phụ của Bà Trần Lệ Xuân, phu nhân của Ông Ngô Đình Nhu, cố vấn của chính phủ Ngô Đình Nhiệm xây dựng từ năm 1916...

Sở VHTTDL Bạc Liêu

Thứ Bảy, 9 tháng 6, 2012

Hang Quân Y ở Cát Bà

Nằm ngay ven đường chính của Vườn quốc gia Cát Bà, Hang Quân y là một điểm bạn nên đến nếu có dịp ghé thăm huyện đảo này. Chắc chắn bạn sẽ bất ngờ vì quy mô hoành tráng của một bệnh viện dã chiến trong lòng núi.

Hang thuộc địa phận thôn Hải Sơn, xã Trân Châu. Đây là một địa danh du lịch thám hiểm hang động đẹp do cấu trúc đặc biệt của nhũ thạch và núi đá vôi ven biển hình thành do trầm tích. Đặc biệt Hang Quân Y còn là một địa danh lịch sử do từng là bệnh viện dã chiến trong thời gian quân đội Mỹ bắn phá miền Bắc Việt Nam những năm 1963 – 1965 bằng máy bay và tàu chiến. Thời gian này Quân và dân trên đảo đã xây dựng hang dựa vào lòng núi đá vôi tự nhiên để làm nơi chữa bệnh cho thương binh, nơi trú ẩn, tránh bom đạn dân cư địa phương và dân cư sơ  tán về từ đảo Bạch Long Vỹ.

Từ trung tâm thị trấn Cát Bà đi khoảng 13km, bạn chỉ mất khoảng 30 phút đến đến Hang Quân y và hang này rất dễ tìm thấy bởi biển chỉ dẫn nằm ngay ven đường.

Lối lên của hang  hiện nay vẫn giữ theo kiểu ngày trước (thang gỗ cơ động có thể phá hủy khi có báo động địch tấn công). Bạn cũng sẽ được "hướng dẫn viên bản địa" dẫn bạn vào hang với giá 15.000 đồng/người.

Mặc dù chỉ là hướng dẫn viên nghiệp dư và cũng chẳng mấy khi có khách nhưng bạn sẽ cảm nhận được sự nhiệt tình của họ mỗi khi bạn đến đây.

Ngay ở lối vào hang đầu tiên, bạn sẽ bắt gặp 1 cánh cửa sắt kiên cố. Giải thích vì sao cánh cửa lại cong gồ lên, anh HDV cho biết, đây là cách để chống đạn, mảnh bom vì khi đạn văng vào, do đường cong của cửa, chúng sẽ bắn sang hai bên thay vì găm thẳng vào gây hư hại cửa.

Ngay sau tấm cửa kiên cố với 4 chốt sắt phụ, 1 chốt chính là lối vào bệnh viện dã chiến với quy mô cực kỳ hoành tráng. Cửa vào có thể hơi nhỏ khiến bạn hơi sợ bởi sự lạnh lẽo và thiếu ánh sáng của nó.

Ánh sáng dọc theo hành lang gần như chỉ đủ sáng phục vụ cho việc đi lại. Bạn sẽ nghĩ đây là một căn hầm chống bom chứ hoàn toàn không nghĩ nó vốn là một hang động bên trong núi. Một phòng bệnh khá rộng trong bệnh viện dã chiến.

Một căn phòng trực của các bác sĩ trong bệnh viện dã chiến hiện ra trước mắt người khám phá nhya sau khi mở cửa. Bạn cũng sẽ phát hiện ra cửa cống thoát nước nằm dọc theo hành lang bệnh viện.

Theo thiết kế, tầng 1 là khu vực chính gồm 14 phòng chức năng. Tầng 2 là khu vực chiếu phim và kiểm tra thể lực. Tầng 3 là sảnh đón tiếp, phòng gác và phòng sĩ quan.


Ước tính, toàn bộ bệnh viện dã chiến này rộng gần 2000m vuông gồm có 3 tầng riêng biệt gồm 17 phòng lớn nhỏ, bãi chiếu phim và một số phòng chức năng. Người hướng dẫn này đang chỉ tay giới thiệu, hệ thống điện chiếu sáng  cung cấp cho từng phòng nhằm đảm bảo công tác cứu chữa bệnh nhân thời kháng chiến.



Phần xây dựng trong Hang Quân Y khép kín, kết cấu bằng bê tông cốt thép, chiều dài nỗi giữa hai hang khoảng 200m, thiết kế gồm có cửa trước tiếp giáp phía Tây, cửa sau tiếp giáp phía Đông, khu vực giữa Hang thiết kế gồm có 3 tầng riêng biệt gồm 17 phòng lớn nhỏ, bãi chiếu phim và một số phòng chức năng.
Tầng 1: khu vực chính gồm 14 phòng chức năng.
Tầng 2: Khu vực chiếu phim và kiểm tra thể lực.
Tầng 3: Sảnh đón tiếp, phòng gác và phòng sĩ quan.


Đây là khu vực vệ sinh chung phục vụ cho nhiều người 1 lúc.

Để lên tầng 2, có 2 đường lên và đều không phải dễ dàng bởi nhằm gây khó khăn cho địch nếu chúng tấn công bất ngờ.

Khu vực phòng chiếu phim đồng thời cũng là hội trường, nơi tập luyện tác chiến... Mặc dù có những chỗ trần rất thấp, phải nằm bò mới có thể di chuyển được nhưng nó rất hợp cho công tác huấn luyện. Lối lên tầng 3 cũng rất khó nếu vội vàng. Đây là cách chống địch tấn công chớp nhoáng.


Trong trường hợp địch tấn công được vào bên trong, mọi người từ tầng 3 có thể nhảy xuống bể nước bố trí bên dưới tầng 2 sau đó lao ra cửa hầm thoát hiểm và chạy thẳng ra lối cửa phụ.

Ngoài ra, trong hang này còn có khu vực cầu thang ngầm đi ngay bên dưới tầng 3. Nó dẫn ra khu thoát hiểm của tầng 3 và đi ra hướng cửa sau của bệnh viện. Cuối đường hầm là 2 tấm cửa sắt lớn chống địch đột kích, công phá. Đây cũng sẽ là lối thoát hiểm nếu địch tấn công từ phía cửa trước.

Cổng ra cũng là cổng thoát hiểm của bệnh viện nằm ở mặt khác ngọn núi, ẩn mình sau những nhũ đá lớn.

Hang Quân Y còn là một địa danh lịch sử do từng là bệnh viện dã chiến trong thời gian đế quốc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc Việt Nam trong những năm 1963 – 1965 bằng máy bay và tàu chiến. Trong thời gian này Quân và dân trên đảo đã xây dựng hang dựa vào lòng núi đá vôi tự nhiên để làm nơi chữa bệnh cho thương binh, nơi trú ẩn, tránh bom đạn dân cư địa phương và dân cư sơ  tán về từ đảo Bạch Long Vỹ.

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ MT (TT&VH), Dulich Halong

Bài đăng phổ biến