Hiển thị các bài đăng có nhãn Thắng cảnh tâm linh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thắng cảnh tâm linh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 27 tháng 6, 2012

Đan viện Thiên An, chốn hoang sơ trầm lắng

Chỉ cách trung tâm thành phố Huế 10km về phía nam, bạn có thể đặt chân vào cõi riêng ở Thiên An, xã Thủy Bằng, Hương Thủy, Thừa Thiên - Huế. 

< Toàn cản đan viện Thiên An.

Nằm trên ngọn đồi thơ mộng quanh năm gió mát với ngàn thông reo xanh vi vút suốt đêm ngày, lô nhô triền đồi, mái lá và con đường dốc ngoằn ngoèo chạy vào ký ức, vẻ đẹp Thiên An còn sâu lắng, quyến rũ lòng người bởi khí hậu mát mẻ, trong lành.

Quần sơn này gồm 140 ngọn đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 60ha, điểm cao nhất chính là ngọn đồi có đan viện tọa lạc. Vừa vào khuôn viên đan viện Thiên An, bên phải có đồi Đức Mẹ, ẩn sâu một cách kín đáo trong rừng thông bên là đồi Thánh Giá.

Chính các đan sĩ người Pháp thuộc dòng tu khổ hạnh Bénedictine đã khai phá và đặt tên cho Thiên An (bình an từ trời).

Ngày 6/10/1940, lễ khánh thành đan viện Thiên An bằng một lễ Misa được cha Romain tổ chức. Các đan sĩ sống hoàn toàn trong nội vi của đan viện, không có những hoạt động với bên ngoài.

Song song với việc kiến tạo đan viện như xây dựng một nhà thờ dòng có lối kiến trúc hài hòa với thiên nhiên, phía bên trái trước nhà thờ là tháp chuông vút cao đầy kiêu hãnh, các đan sĩ sư huynh và những người giúp việc đã xúc tiến việc trồng thông, đào hồ, lập vườn, biến vùng rừng núi khô cằn này thành một vùng rừng núi trù phú. Hai hồ nước trong đan viện được đào năm 1940 - 1960, cung cấp nước cho toàn khu vực và trở thành thắng cảnh, trong đó có hồ Thủy Tiên huyền thoại với những giọt nước thủy chung.

Những sớm mùa thu, khi màu nắng nhạt mỏng manh choàng lên ngọn đồi, lá thông xanh rung rinh lấp lánh trong nắng mai, những con đường còn dư vị ươn ướt của mùi sương trộn lẫn với xác lá thông già làm Thiên An càng quyến rũ. Đan viện nằm giữa một khung cảnh trầm lắng, yên tĩnh chính là nơi để các đan sĩ đi vào chiều sâu của đời tu trì cũng như tạo điều kiện cho những ai đến đây để tĩnh tâm, cầu nguyện và tìm kiếm sự bình an.

Du lịch, GO! - Theo Du lịch, internet

Thứ Ba, 26 tháng 6, 2012

Sống thiền ở Linh Ẩn tự

Đường đến Linh Ẩn tự - thiền viện Trúc Lâm thứ hai của Đà Lạt - qua nhiều con dốc quanh co với những đồi thông nhấp nhô, nhiều hình thù lạ mắt. Qua bản làng đồng bào người Nùng (xã Tà Nùng), bạn sẽ đến thị trấn Nam Ban, nơi Linh Ẩn tự tọa lạc.

Từ tỉnh lộ 725, thấp thoáng dưới rừng thông, Linh Ẩn tự hiện lên như đầu một con rồng phun nước. Nằm trên độ cao 1.080m, ở thế “tọa sơn ngọa thủy”, sau chùa có đồi thông xanh ngút ngàn, trước mặt có thác Voi ào ào tuôn chảy quanh năm nên không khí ở chùa luôn luôn mát mẻ, yên tĩnh.

Du khách đến với Linh Ẩn tự ai cũng trầm trồ khen ngợi vị sư trụ trì, thượng tạo Thích Tâm Vị - khi ngài có con mắt tinh tế khi chọn địa thế để xây dựng ngôi chùa cho bà con người Hà Nội đi xây dựng kinh tế mới ở Lâm Hà (Lâm Hà ghép từ hai địa danh Hà Nội và Lâm Đồng).

< Linh Ẩn tự ẩn hiện nhìn từ thác Voi.

Nằm ở chốn “thâm sơn cùng cốc” nhưng kiến trúc Linh Ẩn tự vẫn toát lên vẻ hiện đại và thân thiện với thiên nhiên. Toàn bộ diện tích đất hơn 4 ha của chùa được phủ xanh với những loại cây rừng như gió, sộp, si, bằng lăng…

Nơi hoành tráng nhất của chùa là Tòa chánh điện (khởi công năm 1999), rộng trên 1.400m², lợp ngói đỏ. Phía tiền điện, hai bên bậc cấp dẫn lên chánh điện nội là hai con rồng tinh xảo đắp bằng xi măng dài 20 mét.

< Phía sau Linh ẩn Tự.

Còn sau những nhành hoa bằng lăng tím nở trái mùa, trên nền trời trong xanh, tượng Di Lặc sừng sững hiện ra, tượng cao 12,5m, rộng 6,5m, ngang 9m (chiếm trên 630m³  không gian).

Bên trái vườn dựng tượng Thích Ca thành đạo, vườn Lâm Tỳ Ni… Theo gợi ý “sao không qua đêm ở chùa để đêm nằm nghe thác đổ” của thầy tri viên Thích Hạnh Viên (thầy chăm sóc hoa cây cảnh của chùa), chúng tôi liền thử sống chốn thiền môn một đêm.

Trong khuya vắng, tiếng chuông chùa thời kinh tịnh độ thi thoảng ngân vang hòa cùng tiếng thác rì rầm đổ khiến không gian trở nên yên ả, thanh tịnh lạ thường.

Một đêm, chỉ một đêm sống nơi già lam nghiêm tịnh của miền rừng núi Lang Biang mà trong lòng chúng tôi nhẹ tênh như vứt bỏ mọi phiền muộn của cuộc sống bon chen thường nhật và thức dậy miệng không khỏi mỉm cười...

< Tượng Phật Di Lặc sừng sững nở nụ cười hỷ lạc chào đón du khách.

Linh Ẩn tự cách thành phố du lịch Đà Lạt 22 km, từ lâu đã trở thành điểm đến lý tưởng của nhiều du khách, đặc biệt là du khách Tây phương ưa mạo hiểm, thích khám phá và tận hưởng sắc màu Đông phương. Chùa Linh Ẩn cách TP.HCM khoảng 300 km, cách Buôn Ma Thuột chừng 200 km và cách Phan Thiết chưa tới 200 km.

Có hai đường đến chùa Linh Ẩn: từ TP.HCM qua QL27 đến Cửa rừng rồi đi về thị trấn Nam Ban hay từ Đà Lạt theo đường Hoàng Văn Thụ qua thác Cam Ly đi thẳng về Nam Ban.

Du lịch, GO! - Theo Phạm Văn Ký (Thanhnien), ảnh internet

Thứ Sáu, 22 tháng 6, 2012

Chùa Hải Tạng: ‘Bậc thầy’ kiến trúc phong thủy

Chùa ở thế phong thủy lý tưởng, tọa lạc sát chân núi phía Tây của Hòn Lao thuộc Cù Lao Chàm, lưng tựa núi, mặt tiền xoay hướng Tây – Tây Nam nhìn thẳng núi Bà Mộc như thể hòn xôi án ngữ.

Chùa Hải Tạng ở vào vị thế lý tưởng, bởi sự thông thoáng, tiền hậu, tả hữu phân minh. Theo truyền thuyết, các cây cột được làm từ ngoài Bắc đem về làm một chùa nào đó trong Nam nhưng khi về đến Cù Lao Chàm vì trời tối nên phải neo ghe nghỉ lại. Sáng ra, ghe kéo neo đi tiếp, nhưng thật lạ lùng, biển tự dưng sóng dậy, ghe cứ xà quần, tới lui lòng vòng không đi ra khỏi Lao. Sau có người trong đoàn lên cúng xin keo mới biết dàn cột này phải để lại dựng chùa cho Cù Lao Chàm không được đem đi. Vì thế chùa dựng lên lấy tên là Hải Tạng. Hải là biển, Tạng là kinh, ý nói Chùa là nơi hội tụ kinh tạng mênh mông như biển. Một ý khác là Kinh tạng của Nhà Phật đây được hội tụ từ mọi con đường trên biển.

Lịch sử Hội An có ghi, chùa được xây dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 19 (1758) ở vị trí cách nơi này khoảng 200m về hướng đông bắc, sau vì do bão làm hư hại nặng và để thuận tiện cho các tín đồ đến hành lễ nên vào năm Tự Đức nguyên niên (1848) chùa dời về vị trí hiện nay.

Ngay dưới chân là đồng ruộng, khu dân cư và mờ xa về đất liền là Đô thị cổ Hội An. Phía Nam có khoảng trống gió lùa trải dài qua Rừng Cấm (nay là Xóm Cấm) đưa hơi nước từ Hòn Nhờn lướt qua trước mặt thổi lên khu dốc Chùa.

Lưu truyền, trước đây khu này rừng rậm có nhiều trăn, rắn độc. Vì thế, để an toàn, tường thành bao bọc xung quanh chùa được xây bằng đá, cổng tam quan phía trước gồm 3 lối vào, tam quan tạo dáng vòm, mái lợp ngói âm dương và đắp nhiều con giống.

Toàn bộ tam quan cao 5m, rộng nhất 1,5m, dài 6m. Kề ngay đấy là 4 trụ biểu, trên chóp trụ có khối hình hoa sen cánh lật… Dù thiên nhiên khắc nghiệt, lại phải đương đầu với nhiều trận cuồng phong hàng trăm năm qua nhưng đến nay, công trình chính vẫn vững vàng, bề thế.

Tuy nhà Tây đã bị sập hoàn toàn, nhà Đông còn lại phần kiến trúc chính nhưng toàn bộ di tích vẫn toát lên vẻ hào sảng uy nghiêm hiếm thấy ở các di tích khác. Chính điện lợp ngói âm dương, bờ nóc, bờ hồi đắp nổi nhiều đường nét uốn lượn mềm mại, uyển chuyển tạo cảm giác nhẹ nhàng.

Lùi vào mái hiên khoảng 2,5m là hệ thống cửa (thường khép kín), thượng song hạ bản, gồm 3 bộ, mỗi bộ 4 cánh ngăn không gian bên ngoài với không gian nội thất. Toàn bộ nếp nhà chính này có hệ vì kèo kết cấu kiểu “chồng rường giả thủ” chia làm 3 lòng.

Việc mở rộng diện tích ở đây được sử dụng biện pháp tăng thêm lòng nhà bằng cách tăng cường hệ liên kết các cây rường, cột cái, cột quân và giả thủ trong thế đỡ thẳng lên đòn tay (hoành), lòng 3 của mái trước được ngăn cách bởi hệ thống cửa tạo thành mái hiên. Với lối kiến trúc này, cộng với liên kết ngang gồm 4 vì (vài) chia làm 3 gian, tạo cho không gian nội thất của chùa thông thoáng, vừa có chiều cao, vừa có chiều sâu và mở rộng.

Du lịch, GO! - Theo Lâm Anh (Tienphong)

Thứ Tư, 20 tháng 6, 2012

Trầm mặc tháp Chăm

Di tích tháp Poklongarai (Po Klong Garai) là quần thể tháp Chàm được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 13 đầu thế kỷ 14, nằm trên đồi Trầu, (Phan Rang - Tháp Chàm, Ninh Thuận). Đây là một công trình độc đáo, được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật và điêu khắc Chăm.

< Cổng vào tháp Po Klong Garai.

Quần thể này gồm ba tháp: Tháp chính (nơi vua ở, cao 20,50 m, dài 13,80 m, rộng 10,71 m - đây là tháp để thờ phượng và hành lễ trong năm); Tháp lửa (bếp lửa của vua, cao 9,13 m, dài 8,18 m, rộng 5 m) và Tháp cổng (nơi vua tiếp khách, cao 5,65 m, dài 5,10 m, rộng 4,85 m) được xây dựng để thờ vua Poklongarai (poklongarai là tên gọi của dân tộc Chăm đối với Vua SINHAVARMAN III (tên hiệu tiếng Phạn) trị vì, từ 1152 đến 1205 - vị vua có công lớn trong việc xây dựng hệ thống dẫn thủy ở địa phương.

Theo truyền thuyết của dân tộc Chăm, có một cặp vợ chồng nông dân nhìn thấy một đứa trẻ sơ sinh nằm trên bọt nước, trôi từ thượng nguồn dòng sông Dinh (chảy qua địa phận huyện Ninh Sơn và qua thị xã Phan Rang - Tháp Chàm đổ ra bể). Tiếng khóc của đứa trẻ đã làm động lòng cặp vợ chồng làm rẫy gần đấy và họ đã đem bé về nuôi. Họ đâu biết, đứa trẻ này được bề trên phái xuống để thử lòng dạ người trần.

Trời làm cho đứa bé bị ghẻ lở đầy người, mà các thầy thuốc giỏi trong vùng đều không thể chữa khỏi, cốt ý để xem cặp vợ chồng này đối xử như thế nào với đứa bé. Sau đó, trời cho Rồng vàng xuống trần, liếm hết những vết ghẻ lở trên người của cậu bé đang chăn trâu rồi nằm nghỉ trưa ở ngoài đồng. Cậu bé sau đó trở nên khôi ngô tuấn tú khác thường... Sau khi vị vua trị vì mất, nghe lời của một vị chiêm tinh, cậu bé (sau này đã trưởng thành) được phong làm vua, lấy tên hiệu là Poklongarai...

Huyền thoại dân tộc Chăm ở Ninh Thuận còn gắn liền với sự nghiệp xây dựng tháp và giữ đất của vua Poklongarai khi người Tàu đến chiếm đất của người Chăm. Theo truyền thuyết, vua Tàu và vua Chăm đưa ra một cuộc thi xây tháp, bên nào xây xong tháp trước trong thời gian đã quy định thì bên ấy được ở lại giữ đất, ngược lại bên nào xây chậm hơn thì phải rút quân đi. Vua Tàu đốc thúc quân lính đào đất nung gạch, xây tháp suốt bốn tháng trời mà tháp vẫn chưa xong.

Trong khi đó vua Poklongarai thì ung dung thong thả. Vào đêm cuối cùng của thời giao hẹn, Poklongarai mới cho quân dựng lên một khung tháp với chất liệu gỗ và trét phên tre lên rồi phủ thêm vải đỏ bên ngoài. Đến sáng ngày hôm sau quân Tàu từ xa đã trông thấy tháp của vua Chăm trụ sừng sững trên đồi mà không hiểu vua Chăm đã có phép lạ gì mà xây tháp nhanh như thế. Không biết mình đã bị lọt bẫy vì cái kế: "Xây tháp giả bằng gỗ" của Poklongarai. Cuối cùng, vua Tàu đành phải chấp nhận rút quân đi khỏi đất của người Chăm như đã giao kết.

Di tích tháp Poklongarai gắn liền với tín ngưỡng truyền thống của đồng bào Chăm ở địa phương. Hằng năm, nhân dân Chăm đều tổ chức các ngày lễ hội ngay tại tháp để tưởng nhớ đến công ơn của vị vua Poklongarai.
Mỗi năm, đồng bào Chăm có bốn lễ hội đặc biệt với những nghi thức riêng, bao gồm: Lễ Đầu năm (vào tháng giêng theo lịch Chăm) là lễ mở cửa tháp để bắt đầu một năm mới với những thành quả mới của dân tộc mình; Lễ cầu mưa (vào tháng 4 theo lịch Chăm) là lễ cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi.

Lễ hội Katê (tổ chức vào tháng 7 theo lịch Chăm), đây cũng được xem là lễ Tết lớn nhất trong năm của đồng bào Chăm. Trong lễ hội Katê, tất cả những người Chăm hiện đang sinh sống ở nhiều miền quê khác nhau đều hội tụ đông đủ về đây để gửi gắm những tâm sự thiêng liêng của mình và của gia đình đối với tổ tiên. Trong suốt 3 ngày diễn ra lễ hội, du khách đến tham quan còn được thưởng thức điệu múa quạt, vũ điệu siva thướt tha dịu dàng của các cô gái Chăm cùng với nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống độc đáo khác. Cuối cùng là Lễ Chabun (tổ chức vào tháng 9 theo lịch Chăm) đây là ngày lễ cha, theo tín ngưỡng của đồng bào Chăm.

Nếu có dịp ghé thăm khu di tích Tháp Poklongarai, du khách sẽ được thưởng thức những đường nét ngoạn mục với lối kiến trúc hình vòm, hình chóp nhọn, phù điêu trang trí mượn của nền văn hóa Chămpa cổ và văn hóa dân tộc Việt, được thưởng thức cái nắng và gió hơi "ngang tàng" nhưng rất đặc biệt của xứ sở Ninh Thuận này.

Từ tháng 3 chớm vào hè đến hết tháng 8 khá đông khách nội địa, ngày lễ có khi tới vài nghìn người tham quan. Từ tháng 9 cho đến tháng 2 năm sau thì phần lớn là khách nước ngoài đi theo tour, gần như không có khách Việt. Vé vào tham quan đồng hạng 10.000 đồng/lượt.

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ Thị Trường, Laodong

Du lịch tâm linh Bà Rịa- Vũng Tàu

Bà Rịa - Vũng Tàu là địa phương đứng thứ hai khu vực miền Đông Nam bộ về số lượng di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh. Trong số đó, có nhiều chùa, đình, đền thờ, miếu… là điểm đến hấp dẫn khách hành hương. Du lịch tâm linh là loại hình du lịch đặc biệt, luôn có sức hấp dẫn với du khách gần xa.

Du khách có thể đến Vũng Tàu nhân dịp đại lễ Phật Đản vào ngày Rằm tháng 4 (ÂL), thưởng thức ẩm thực chay vừa có lợi cho sức khỏe và để bảo vệ môi trường

Thích Ca Phật Đài là một ngôi chùa lớn ở thành phố Vũng Tàu, rộng 6ha, tọa lạc ở Tây Bắc sườn núi lớn, nổi bật với bức tượng Đức Phật Thích ca mâu ni tọa thiền được xây dựng vào ngày 20/7/1961.

Vẻ đẹp của ngôi chùa chính là sự kết hợp giữa kiến trúc tôn giáo và phong cảnh thiên nhiên, đáng chú ý ở ngôi chùa này là ngọn tháp Bát Giác cao 19m và tượng Phật Thích Ca ngồi thiền trên toà sen cao 10,2m đường kính khoảng 6m.

Tượng và tháp đều màu trắng và được dựng ở lưng chừng núi cao, đứng từ xa cũng chiêm ngưỡng được. Thích Ca Phật Đài là một địa điểm tôn giáo cũng như tham quan chủ yếu của thành phố Vũng Tàu.

Chùa Quan Âm Bồ Tát nằm trên đường vòng Núi Lớn, cách Bãi Dâu 500m được xây dựng vào năm 1976.

Chỉ là một ngôi chùa nhỏ nhưng nổi bật ở giữa khu vực chùa là một pho tượng Phật Bà Quan Âm cao 16m làm bằng xi măng cốt sắt theo hình tượng một phụ nữ hiền hòa đức độ mặt hướng ra biển tay cầm bình Cam Lộ, đứng trên toà sen. Đây là một ngôi chùa rất hiển linh và cũng là điểm tham quan của khách du lịch.

Chùa Phước Lâm Tự tọa lạc tại số 65 Nguyễn Bảo -phường 6, thành phố Vũng Tàu, được xây dựng vào năm 1886. Đây là một trong những ngôi chùa cổ ở thành phố Vũng Tàu, kiến trúc dạng tứ trụ của chùa cổ miền Nam.

Năm 1956, chùa được đại trùng tu, mặt tiền xây lầu. Năm 1993, chùa tiếp tục trùng tu, tạo cảnh quan thoáng đãng. Qua tam quan, ở ngay sân sau chùa có đài Quan Âm. Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Hai pho tượng lớn được tôn trí ở trung tâm là tượng đức Phật Thích Ca thành đạo và tượng đức Phật nhập niết bàn. Chùa còn giữ pho tượng cổ Visnu (thế kỷ thứ VII). Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ VHTTDL) công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia năm 1992.

Thiền Viện Chơn Không: nằm nép mình trong bốn bề núi rừng tĩnh mịch, trên triền núi Lớn, ở độ cao 80m, diện tích 2ha, tại 36/11 Viba, phường 6, TP. Vũng Tàu. Tháng 4/1966, Hòa thượng Thích Thanh Từ đã khai phá vùng đất Hòn Chụp – Núi Tượng Kỳ (Núi Lớn) và xây thất Pháp Lạc để tu học. Đến năm 1970, Hòa thượng cho xây thiền viện gồm: ngôi thiền đường, tăng đường, trai đường, nhà khách, thiền viện Bát Nhã (thiền viện cho chư Ni), hồ chứa nước. Năm 1995, thiền viện được kiến thiết thành một ngôi chùa thanh thoát, có dáng vẻ khang trang, uy nghiêm và cổ kính. Khuôn viên chùa rộng khoảng 2.000m², với một cảnh quan kỳ vĩ, quần thể kiến trúc độc đáo, là một thắng cảnh đẹp trong lòng thành phố thích hợp để du khách tham quan, lễ Phật.

Chùa Linh Sơn Cổ Tự tọa lạc ở số 61 đường Hoàng Hoa Thám, Phường 2, thành phố Vũng Tàu. Tuy không đồ sộ rộng lớn nhưng Linh Sơn Cổ Tự là ngôi chùa lâu đời nhất ở Vũng Tàu, được xây dựng trên triền núi Nhỏ.

Trong chánh điện có thờ một tượng Phật cao 1,2m bằng đá thếp vàng được tạc rất khéo léo và tinh xảo với vẻ mặt từ bi và sống động.

Chùa “Niết Bàn Tịnh Xá” còn gọi là chùa “Phật Nằm”, được xây dựng trên sườn núi nhỏ, hướng mặt ra biển, được xây dựng từ năm 1969 bằng tiền quyên góp của đồng bào phật tử, đây là một trong những ngôi chùa đẹp nhất ở Vũng Tàu với những đường nét kiến trúc hiện đại.

Ở phía trước chùa là một cột cờ cao 21m, được chia thành 42 bậc biểu tượng cho 42 trang kinh phật đầu tiên được lưu truyền vào Việt Nam vào thế kỷ thứ II, cổng chùa có 4 chữ “Niết Bàn Tịnh Xá” tức là nơi thanh cao nhất của đạo Phật.

Hai bên cổng chùa là 2 pho tượng “Thần Thiện” và “Thần Ác”, khu chánh điện đựợc bài trí thành một vườn hoa Sa La theo cảnh Đức Phật nhập Niết Bàn.

Nổi bật là bức tượng “Phật Nằm”, dài 12m tượng trưng cho “Thập nhị nhân duyên” và được đặt lên bộ thờ 2,5m, phía trước chính điện có một chiếc lư đồng lớn với hình tượng tú linh Long, Lân, Quy, Phụng. Song song với lư ở hai bên là hai tòa tháp cao khoảng 5m. Tòa bên trái có tượng Phật A Di Đà, tòa bên phải có tượng Phật Dược Sư. Tầng hai có chiếc thuyền rồng còn gọi là Thuyền Bát Nhã, dài 12m.

Hòn Bà là ngôi Miếu tuy nhỏ nhưng mang nét cổ kính nằm trên mỏm đá gần bờ biển, cách chân núi Nhỏ khoảng 200 mét, vốn là một thắng cảnh hữu tình bởi dáng vẻ nhỏ xinh duyên dáng như một thiếu nữ tuổi tròn trăng. Sự kết hợp hoàn hảo giữa đá và biển tạo nên nét đặc trưng của Hòn Bà.

Vào những lúc bình minh hay hoàng hôn, Hòn Bà lại càng mang cho mình vẻ đẹp rực rỡ do những ánh nắng nhẹ phản chiếu, lung linh mờ ảo. Đặc biệt vào những đêm trăng sáng, Hòn Bà hiện ra như một bức tranh thủy mạc lung linh, kỳ bí, quyến rũ vô cùng. Du khách muốn vãn cảnh chùa phải đi bằng thuyền thúng sang hoặc lúc thủy triều rút cạn dễ dàng đi bộ qua bãi đá

Trong chuyến đi du lịch vãn cảnh chùa đầy ý nghĩa, du khách vừa có dịp thưởng lãm danh lam thắng cảnh của Vũng Tàu, được ngắm khung cảnh thanh tịnh, lắng nghe tiếng chuông chùa ngân vang cho tâm hồn thư thái, tìm cảm giác bình yên và được thưởng thức các món ăn được chế biến từ chính những thực phẩm thuần chay thiên nhiên bổ dưỡng.

Du khách có thể dùng những bữa cơm chay tại chùa hoặc tại các nhà hàng, quán ăn chay tại Vũng Tàu. Nhà hàng chay Quy Nguyên số 253 Nguyễn An Ninh - TP.Vũng Tàu với thực đơn phong phú đặc biệt là món cơm Quy Nguyên đã đoạt giải tại liên hoan ẩm thực các tỉnh, thành phố ven biển năm 2012 tổ chức tại Chợ du lịch Vũng Tàu.

Du lịch, GO! - Theo Thi Vân (Báo Du Lịch), ảnh internet

Thứ Ba, 19 tháng 6, 2012

Khu di tích Am Tiên

Khu di tích lịch sử - văn hóa Am Tiên - nằm trên đỉnh một ngọn núi cao ở phía Nam của dãy núi Nưa, thuộc xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Đây là một khu di tích lịch sử thắng cảnh nổi tiếng gắn liền với cuộc khởi nghĩa Bà Triệu chống quân Ngô vào năm 248 trước công nguyên. Xung quanh vùng núi Nưa vẫn còn lưu truyền nhiều địa điểm, địa danh gắn liền với căn cứ kháng chiến của Bà như: Gò đống thóc (nơi để kho lúa của nghĩa quân), Đồng kỵ (nơi nuôi ngựa chiến của nghĩa quân)… Đỉnh núi Nưa – nơi có động Am Tiên là một khu đất rộng và khá bằng phẳng. 

Tuy ở độ cao 585m nhưng ở đây vẫn có mạch nước ngầm chảy ra trong vắt và không bao giờ cạn, đã tạo thành một cái giếng tự nhiên rất đặc biệt mà dân gian đặt tên là giếng Tiên, tương truyền là giếng dành riêng để Bà Triệu lấy nước rửa mặt mỗi khi xung trận, phía dưới vài trăm mét có một hố nước rộng gọi là Ao Hóp, tương truyền là nơi cung cấp nước sinh hoạt cho nghĩa quân bà Triệu.

< Con đường lên đền Am Tiên dù nhầy nhụa bùn vẫn tấp nập du khách tới cầu tài lộc, cầu bình an.

Trên đỉnh Núi Nưa, ngoài động Am Tiên, Giếng Tiên còn có bàn cờ Tiên, vườn thuốc Tiên và vườn đào Tiên mà sử sách và truyền thuyết đã nhắc đến như một trung tâm của sự tu tiên đắc đạo. Ở nơi nên thơ và quyến rũ này còn có ngôi chùa cổ gọi là chùa Am Tiên, đền chúa Thượng Ngàn (Bà Triệu hoá thân theo cách nghĩ của dân gian) và miếu Tu Nưa thờ vị đạo sĩ thời Trần – Hồ.

Ngoài ra ở đây còn có cả một khu vực thờ lộ thiên để thờ cúng thần núi Tản Viên Sơn Thánh. Theo dấu tích của nền móng cũ, trong gần 20 năm qua, nhân dân địa phương đã tự nguyện đóng góp tiền của, công sức để dựng lại chùa Am Tiên, đền Bà Chúa, đền Tu Nưa để thờ phụng.

Ở khu vực Am Tiên, nhân dân còn thu gom được nhiều hiện vật có giá trị minh chứng về sự tồn tại lậu đời của các loại hình kiến trúc,tín ngưỡng tôn giáo Phật - Đạo - Mẫu trên đỉnh núi cao nhất ngàn Nưa này.

< Giếng Tiên.

Và cũng chính vì vậy mà khu vực Am Tiên trên đỉnh núi Nưa không chỉ là nơi luyện trí mài gươm của nghĩa quân Bà Triệu mà còn là vùng huyệt đạo linh thiêng thu hút hàng vạn lượt người từ các nơi về tham quan hành hương, thưởng ngoạn, dâng hương chiêm bái nhất là vào dịp lễ hội tháng Giêng hằng năm.

Ngày 27/3/2009, di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh núi Nưa - địa điểm khởi nghĩa Bà Triệu (gồm Núi Nưa - Đền Nưa - Am Tiên) đã được nhà nước xếp hạng di tích - thắng cảnh cấp quốc gia. Đây là niềm tự hào đối với nhân dân huyện Triệu Sơn nói riêng và nhân dân xứ Thanh nói chung.

< Du khách thập phương tìm đến chùa Am Tiên cầu may mắn, an lành.

Ngày 22/8/2011, UBND tỉnh Thanh Hóa đã có Quyết định 2723/QĐ-UBND phê duyệt quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử - danh lam thắng cảnh - địa điểm khởi nghĩa Bà Triệu gắn với phát triển du lịch.

Ngày 26/9/2011, UBND tỉnh ra quyết định về việc ban hành quy định quản lý theo đồ án Quy hoạch nói trên. Theo đó, Thanh Hóa sẽ tiến hành bảo tồn, tu bổ các di tích gốc như đền Nưa, cảnh quan núi Nưa và giếng Tiên; phục hồi các công trình đã có nhưng bị phá hủy như đền Bà Triệu, chùa Phủ, chùa Ngoài, đền Tu Nưa, động Đào, ao Hóp, Am Tiên, khe Đá Bàn...

< Du khách ai cũng muốn xin nước ở giếng Tiên để mang về.

Để một di tích xứng tầm quốc gia, trở về đúng với giá trị của nó thì việc bảo tồn, tôn tạo, xây dựng là điều hết sức cần thiết. Rất cần sự quan tâm, đầu tư của các cấp, các ngành chức năng, các doanh nghiệp hảo tâm trong và ngoài tỉnh.

Du lịch, GO! - Theo Hoàng Năng Hùng (Baodulich), internet

Thứ Sáu, 15 tháng 6, 2012

Đến Mẫu Sơn nghe chuyện huyền bí

Du khách thường tìm đến Mẫu Sơn để tìm cảm giác lần đầu tiên thấy băng tuyết trên quê hương, nhưng ở đây không chỉ có tuyết...

Với một chút máu phiêu lưu, du khách sẽ tìm thấy nhiều điều kỳ thú ở đây nhưng phải chịu cảnh đi xuyên rừng, có khi đổ đèo dốc thăm thẳm, rồi lại băng lên những cửa ải hùng vĩ. Nếu đi vào mùa khô phải men theo khe suối, còn mùa mưa phải lần trên các gò đồi cao tránh suối lớn, trơn trượt...

Điểm đến cần khám phá này là khu linh địa cổ Mẫu Sơn thuộc địa phận xã Mẫu Sơn, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn. Để khám phá linh địa cổ Mẫu Sơn, từ Hà Nội chúng ta có thể đi ôtô khách hoặc xe máy. Nhưng để chủ động và thích hợp với phong cách khám phá thì chúng ta nên đi bằng xe máy bởi hơn 180km không phải là quá xa.

Nên đi vào buổi chiều để tối chúng ta ngủ tại TP Lạng Sơn lấy sức chuẩn bị cuộc hành trình khám phá với hơn 8g. Nên đi với số lượng 4-5 người trở lên và càng mang đồ gọn nhẹ càng tốt.

Lỡ hẹn với... băng tuyết

Lần nào cũng vậy, mỗi khi trời dưới xuôi rét đậm tôi lại nghĩ ngay tới băng tuyết Mẫu Sơn. Nhìn các tấm ảnh cành cây, nhành hoa bị băng tuyết bao phủ trong vắt như pha lê mà người bạn ở Lạng Sơn gửi về khiến tôi không khỏi ước ao được một lần chứng kiến, được tự tay chụp những khoảnh khắc hiếm đó.

< Những hiện vật vương vãi khắp nơi trong khu linh địa.

Có lẽ do chúng tôi chưa bén duyên với sự xuất hiện của băng tuyết Mẫu Sơn. Đợt rét gần đây nhất cậu bạn gọi điện báo xuất hiện băng tuyết, tôi vội vã nhảy lên con Dream “chiến” lên đường. Thế nhưng khi mới tới trung tâm huyện Chi Lăng thì bất ngờ trời xứ Lạng hửng nắng… Một trải nghiệm bất ngờ!

“Đã lên tới đây rồi thì nên đi Mẫu Sơn, chỗ này độc lắm - Linh địa cổ nhé” - cậu bạn vỗ vai tôi.

Từ trung tâm thành phố Lạng Sơn, chúng tôi vượt hơn 20km đến huyện Lộc Bình theo con đường đi cửa khẩu Chi Ma. Tiếp tục đi theo con đường này đến cột mốc kilômet số 7 thì rẽ trái vào một đường đất nhỏ. “Đến đây gửi xe, bắt đầu đi bộ nhé” - cậu bạn chỉ vào Trường tiểu học xã Mẫu Sơn (thuộc thôn Lặp Pịa). Suốt dọc con đường nhỏ chạy men theo sườn núi ước gần 1km chúng tôi nhiều lần giật mình thú vị vì những chú sóc tinh nghịch băng qua đường, chúng quá nhanh nên chẳng chộp được tấm ảnh nào ra hồn.

< Ngôi mộ tổ của dân tộc Dao được khắc chữ Nôm Dao.

Rồi một bãi đá lớn được xếp rất lạ mắt hiện ra trước mắt. Người bạn đồng hành giải thích đó là ngôi mộ tổ của dân tộc Dao, Mẫu Sơn. Ngôi mộ được đánh dấu bằng bảy phiến đá phẳng, cao gần 1m, mặt trước phiến đá có khắc các dòng chữ loằng ngoằng. Anh bạn tôi giải thích đó là chữ Nôm Dao và đây là ngôi mộ tổ của dòng họ Triệu, dân tộc Dao.

Tiếp tục cuộc hành trình qua các loại địa hình từ đường đất rồi đến đường mòn, băng rừng và men theo con đường nhỏ dọc sườn núi, chúng tôi đã đến được khu linh địa cổ Mẫu Sơn.

< Những gì còn sót lại của quần thể linh địa Mẫu Sơn một thời hoành tráng...

Một bãi đất đá trống trải ra trước mắt chúng tôi. Không quá kỳ bí như những gì tôi tưởng tượng về khu linh địa cổ qua câu chuyện người bạn kể trên đường. Đứng ở một vị trí cao đủ bao quát thì có thể hình dung được quần thể linh địa một thời hoành tráng với những nền móng bằng đá, chân cột đá, tường đá, tường gạch, bậc thềm và cả cánh cửa đá…

Những câu chuyện hư cấu

Qua người bạn, tôi được biết thời gian qua có nhiều nhà nghiên cứu lịch sử đã đặt chân tới mảnh đất này. Những nền móng được xác định đó là ngôi đền cổ có từ thế kỷ 10, hai ngôi mộ cổ cũng vậy. Các phiến đá tại khu linh địa cổ này do bàn tay con người đục đẽo, gọt giũa bằng phẳng, các góc của mộ đá vuông thành sắc cạnh, mộ đá có mái che…

< Cối xoay cửa còn sót lại.

Bao phủ xung quanh linh địa này là những câu chuyện hư hư thực thực được truyền miệng khiến hành trình khám phá thêm phần bí hiểm và thú vị. Bất kỳ ai lên đây cũng đều sẽ được nghe câu chuyện kể về phiến đá khóc ra máu. Chuyện kể rằng trong một chuyến đi săn, ông chủ gia đình người Dao vác về một phiến đá kỳ lạ từ khu linh địa cổ, với suy nghĩ đơn giản là dùng vào công việc cá nhân của gia đình.

Thật kỳ lạ là mờ sáng hôm sau, vừa tỉnh giấc ông chủ nhà thấy phiến đá đang rỉ ra những giọt máu. Ông vội vã cùng gia đình thành khẩn cõng phiến đá thiêng lên trả lại chỗ cũ và cầu xin tha thứ. Câu chuyện cứ thế lan truyền mãi trong ký ức của người Dao và các dân tộc khác trong vùng, trở thành câu chuyện kể cho các lữ khách lạc bước lên đây.

< Di tích nền móng đền thờ chính.

Bóng hoàng hôn dần khuất sau bước chân với bao câu chuyện kỳ bí khác. Nào là câu chuyện hoa đào vùng Mẫu Sơn có màu đỏ sẫm vì mảnh đất này được nhuộm bởi dòng máu vô tận từ một câu chuyện tình đầy nỗi oan khiên. Rồi cả lý do tại sao Mẫu Sơn lại nức tiếng với tên một loại rượu mang tên địa danh này…

“Cuối tháng 3 này lại lên nhé, mùa hoa đỗ quyên nở đẹp lắm. Khắp núi rừng sẽ rực bởi sắc đỏ loài hoa này” - cậu bạn hẹn tôi trước khi chia tay.

Khám phá linh địa cổ Mẫu Sơn, Lạng Sơn

Du lịch, GO! - Theo Lam Thanh (TTCN)

Thứ Hai, 11 tháng 6, 2012

Bình yên chùa Long Sơn

Giữa thành phố Nha Trang sầm uất bỗng có một khoảng không gian riêng mở ra thanh bình dưới chân núi Trại Thủy (phường Phương Sơn), nơi có ngôi chùa Long Sơn hơn trăm năm tuổi.

< Toàn cảnh chùa Long Sơn nhìn từ bên ngoài vào.

Chùa còn được gọi là chùa Phật Trắng hoặc Đăng Long tự. Đây là điểm đến hành hương, vãn cảnh yêu thích của người địa phương cũng như khách thập phương và là ngôi chùa nổi tiếng nhất thành phố Nha Trang bởi lịch sử lâu đời với bức tượng Kim Thân Phật tổ nằm trên đỉnh núi.

Xây dựng từ năm 1963, đã đưa ngôi chùa vào danh sách kỷ lục Việt Nam: “Ngôi chùa có tượng Phật ngoài trời lớn nhất Việt Nam”.

Chùa đẹp từ ngay cổng ra vào, bởi những cột đá và bức phù điêu bố trí ngay chính điện. Quanh chùa là vườn cây xanh mướt cộng thế núi vững chãi sau lưng, tạo cảnh sắc chung hài hòa và sinh động. Khuôn viên chùa khá rộng, do nằm giữa vườn cây nên không khí thoáng mát và trong lành. Mái chùa theo kiểu chùa truyền thống Việt Nam, nhiều chi tiết tinh xảo và đẹp mắt.

Chính điện thoáng và rộng đến 1.670m2, đủ cho hàng trăm phật tử và khách hành hương đến hành lễ. Đặc biệt có một bức tượng Phật tổ bằng đồng đang ngồi thuyết pháp, cao 1,6m, nặng 700kg.

< Mái chùa theo kiến trúc chùa truyền thống Việt, uốn cong với nhiều chi tiết tinh xảo.

Ngoài hiên chùa là gần 200 bậc thang dẫn lên núi Trại Thủy, để khách hành hương vừa chiêm bái vừa vãn cảnh chùa thanh tịnh ngay giữa thành phố sầm uất Nha Trang. Đến bậc thứ 44, du khách sẽ dừng lại để chiêm ngưỡng bức tượng Phật nhập niết bàn giả đá hoa cương tuyệt đẹp. Phía sau bức tượng là một bức phù điêu lớn mô tả cảnh 49 đệ tử của Đức Phật ngày đêm niệm Phật.

< Chính điện chùa khá rộng, nơi phật tử khắp nơi đến để niệm Phật và cầu bình an.

Tuy mới xây dựng trong thời gian gần đây, khoảng năm 2003, nhưng bức tượng tuyệt đẹp này đã trở nên quen thuộc với phật tử khắp nơi, thu hút rất nhiều người đến chiêm bái hằng ngày.

Tiếp tục rảo bước lên những bậc tam cấp, du khách còn được chiêm ngưỡng một đại hồng chung cao đến 5,5m do phật tử ở Huế tặng chùa năm 2002.

< Tượng Phật ngồi thuyết pháp nằm trên đỉnh núi.

Và khi lên đến đỉnh đồi Trại Thủy, ai cũng có cảm giác thanh thản bình an khi nhìn thấy bức tượng Phật trang nghiêm ngồi thuyết pháp hiện lên giữa trời xanh mây trắng và một không gian khoáng đạt mênh mông. Bức tượng cao 21m, bên dưới là đài sen cao 7m. Xung quanh đài sen là chân dung bảy vị hòa thượng và đại đức đã tự thiêu để chống lại chế độ đàn áp Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm.

< Bức tượng Phật nhập niết bàn nằm ở lưng chừng núi.

Được xây dựng từ năm 1963 bởi sự đóng góp của phật tử trong vùng cũng như các vùng lân cận, bức tượng tuyệt đẹp và trang nghiêm đã điểm một nét đẹp cao quý và thanh tao cho ngôi chùa.

Từ nơi này nhìn xuống cảnh vật xung quanh, có thể chiêm ngưỡng thành phố Nha Trang xinh đẹp hiền hòa bên dưới, quả là một chuyến vãn chùa thú vị, mang đến cảm giác an nhiên trong tận tâm hồn.

Du lịch, GO! - Theo Huỳnh Thu Dung (TTO)

Thứ Năm, 7 tháng 6, 2012

‘Gò bồng đảo và động thiên thai’ kỳ bí trên núi Ba Vì.

Vùng Ba Vì (Hà Nội) là một quần thể của những điều huyền bí. Một trong những điều kỳ lạ ấy là ở làng Nghe có dãy núi mang hình bộ ngực khổng lồ của thiếu nữ, thẳng bộ ngực đó xuống phía dưới là một cái giếng mà theo tiếng người Mường cổ là Pó Ché, dịch ra tiếng Việt có nghĩa là âm hộ.

Theo người dân nơi đây thì những hình ảnh đó là biểu tượng của công chúa Ngọc Hoa, con gái của vua Hùng Vương thứ 18.

Giếng âm hộ

PGS.TS Tạ Hòa Phương, Chủ nhiệm Bộ môn Địa chất Lịch sử, Trường Đại học KHTN, ĐHQGHN, người có nhiều năm nghiên cứu về địa chất vùng núi Ba Vì cho biết: Vùng núi Ba Vì chủ yếu là đá núi lửa, trong thời kỳ permi cách đây khoảng 280 - 251 triệu năm.

Nó là sản phẩm của hoạt động núi lửa, trong đó có cả đá mắc ma tạo thành. Vùng núi này có nhiều khoáng sản quý hiếm. Ngay khu vực của giếng âm hộ có bom núi lửa rất hiếm có ở miền Bắc. Núi lửa trong quá trình hoạt động nổ tung lên, khi cắm xuống mặt đất tạo thành bom núi lửa, nằm ngay bên giếng âm hộ.

< Giếng quanh năm có nước.

PGS.TS Tạ Hòa Phương cho hay, trước đây người Mường cổ thường gọi giếng này là Pó Ché, dịch ra tiếng Việt là âm hộ. Tên giếng ấy theo truyền thuyết truyền lại vì giếng này có hình giống như âm hộ của người phụ nữ.

Lạ kỳ thay giếng này quanh năm có nước. Có thời gian hạn hán, quanh vùng sông hồ đều cạn trơ đáy, nhưng giếng vẫn có nước. Đặc biệt, nước giếng mùa đông ấm, mùa hè thì rất mát. Nhiều người cho rằng, uống nước ở giếng âm hộ này rất tốt cho sức khoẻ, tinh thần sảng khoái.

Những năm trước khi chưa có nước giếng khoan, giếng âm hộ là nguồn cung cấp nước ăn uống, sinh hoạt cho người dân trong vùng. Người Hà Nội sống ở phố xá khi nghe kể về giếng này cũng thường đến lấy nước về uống mỗi dịp ngày rằm hay mồng một hằng tháng.

Ông Bùi Văn Việt (xã Vân Hòa) cho biết: "Chúng tôi sinh và lớn lên ở vùng đất này, ngay từ nhỏ đã thấy dãy núi có hình bộ ngực của thiếu nữ và giếng âm hộ. Vì truyền thuyết về tên gọi giếng âm hộ của Ngọc Hoa công chúa mà trước đây, chỉ những phụ nữ mới được tắm tại giếng Pó Ché. Cũng chính vì những lời nói đó mà có thời gian đàn ông nơi đây không dám lấy nước về dùng".

Núi có hình bộ ngực

< Đỉnh núi mang bộ ngực của thiếu nữ, biểu tượng của công chúa Ngọc Hoa.

PGS.TS Tạ Hòa Phương bảo: “Chúng tôi là những người nghiên cứu nhiều năm về vùng đất Ba Vì, quả thực nơi đây có nhiều điều thật kỳ bí và linh thiêng. Nếu chúng ta nhìn từ phía đông chính diện của đỉnh Ngọc Hoa, vào buổi sáng khi những làn sương trên núi tan đi hình ảnh bộ ngực khổng lồ của thiếu nữ dần được hiện ra lung linh, huyền ảo. Đứng dưới những cánh đồng trù phú, với nhiều cây cối xanh tươi, nhìn lên dãy núi chúng ta sẽ thấy khung cảnh tràn đầy sức sống”.

Từ bao đời nay, người dân nơi đây vẫn liên tưởng hình ảnh giếng âm hộ, với bộ ngực của thiếu nữ trên núi Ba Vì có mối quan hệ khăng khít với nhau. Nhiều người cho rằng đó là biểu tượng của công chúa Ngọc Hoa. Điều này trùng khớp với câu chuyện trong truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh xưa kia về nhân vật Ngọc Hoa công chúa là con  gái vua Hùng Vương thứ 18.

Sau này người dân đặt tên núi Tản Viên, đỉnh Ngọc Hoa và núi Sơn Tinh. Đó là mái nhà chung của gia đình Vua Hùng. "Xét trong bối cảnh chung của khu vực núi Ba Vì, ngọn núi này là biểu tượng của công chúa Ngọc Hoa trong truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy tinh. Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi thì nó cũng có nhiều cái linh ứng, trùng khớp. Người dân nơi đây cũng cho rằng như vậy",  PGS.TS Tạ Hòa Phương nhận định.

Mất mạng vì tắm trần bên giếng?

TS Ngô Kiều Oanh, từng công tác tại Viện Khoa học Việt Nam cho biết: Giếng này rất tâm linh, ngày xưa nơi đây là khu rừng rậm rạp, là nơi sinh sống của nhiều loài động vật quý hiếm như voi, hổ báo. Vì thế, người dân không dám sống ở khu vực giếng này.

< TS Ngô Kiều Oanh và các nhà khoa học khảo sát giếng âm hộ.

Sau năm 1954, có gia đình Việt kiều người Pháp về Ba Vì thăm bố, họ muốn ở lại đây sinh sống. Nhưng gia đình này không được lòng của người dân và chính quyền nơi đây, vì thế, họ buộc phải lên núi để ở. Chính gia đình Việt kiều đó trong quá trình đi tìm nguồn nước để sinh sống họ đã tìm ra giếng âm hộ.

Gia đình Việt kiều sống ở khu vực giếng âm hộ một thời gian thì có cặp rắn thần xuất hiện. Họ sợ quá nên mới bán đất để đi nơi khác sinh sống. "Lúc đầu nghe nói có đôi rắn xuất hiện ở khu vực giếng tôi không dám mua. Nhưng sợ nếu đất này vào tay người khác, họ sẽ phá giếng đi mất. Sau này tôi mới hiểu về tâm linh khu vực giếng này, nghĩ mình có duyên với nơi đây. Chính vì thế tôi đã mua lại khu đất và xây bao quanh để bảo vệ giếng", TS Ngô Kiều Oanh cho biết.

TS Ngô Kiều Oanh kể rằng: "Trước đây, giếng âm hộ là nguồn nước không thể thiếu được trong việc cung cấp nước cho người dân ăn uống sinh hoạt. Một hôm có một người đàn ông cởi trần truồng đến đây tắm, mặc cho mọi người can ngăn nhưng người đàn ông này vẫn múc nước tắm ào ào. Thời gian sau, người đàn ông đó mắc phải căn bệnh ngoài da rất lạ, đi chữa ở nhiều bệnh viện không khỏi. Nhiều người cho rằng ông ấy đã bị thánh mẫu phạt. Vì thế, giếng này càng thêm tính linh thiêng".

< PGS.TS Tạ Hòa Phương.

Đối với dân làng Nghe, đây là tài sản vô giá, sự linh thiêng từ bao đời nay, nhờ núi, nhờ giếng mà người dân nơi đây sinh tồn và phát triển đến ngày nay. Ngọn núi chở che cho người dân mỗi khi thiên tai hoạn nạn. Giếng nước là nguồn nước vô tận, giúp cho người dân chống hạn hán, cung cấp nước quanh năm để người dân ăn uống và sinh hoạt. Vì vậy, mọi người rất có ý thức để bảo vệ tài sản vô giá đó.

"Hiện nay, chúng tôi đang xây dựng đề án để núi Ba Vì được công nhận là công viên địa chất của Hà Nội. Nơi đây có nhiều núi đá được hình thành hàng trăm triệu năm trước đây. Việc bảo tồn giếng âm hộ và đỉnh núi Ngọc Hoa là việc làm hết sức quan trọng.

Tôi thực sự đau xót khi nhìn thấy hình ảnh Hòn Chẹ nơi đây bị con người tàn phá. Đây vốn là kiệt tác của tạo hoá, một danh lam thắng cảnh nổi tiếng từ lâu đời. Nó gắn liền với truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh. Quả núi Chẹ tọa lạc giữa nền đất bằng phẳng, vươn tới tận bờ sông Đà từng được người Pháp trước đây ví như một Nhà thờ Đức Bà ở trời Nam".
PGS.TS Tạ Hòa Phương

Du lịch, GO! - Theo Kiến thức và nhiều nguồn ảnh khác.

Bài đăng phổ biến