Thứ Bảy, 23 tháng 6, 2012

Vàng mai


Đưa chén trà lên môi, nhắp nhẹ, giọng từ tốn, tôi khẽ nói: “Bác có khi nào tìm về chốn cũ ấy chăng?”. Lão già nước mắt lưng tròng, gượng cười: “Thầy giáo ạ! Trước đây thì có, giờ thì chân chùn gối mỏi làm sao mà đến được. Âu cũng là phận cả! Thế thầy có tin mỗi cuộc đời đều có phận của nó không? Tôi thì tôi tin thầy ạ! Càng già thì càng tin. Chả bù với thời trẻ”.


ảnh minh họa
- Bác nói thế thì tôi tin thế. Mà đã có
phận tất có duyên. Cũng nhờ có duyên mà tôi được
làm quen với bác đấy.
Lão cười: “Thầy khéo nịnh! Mà thôi! Giờ thì
tôi đưa thầy đi xem mai”.
Tôi cùng lão ra vườn. Gọi là vườn cho nó
“khí thế”, chứ thực ra ở cái thành phố đang phát
triển này làm gì có đất rộng để làm vườn.
Chả bù lúc ngồi nói chuyện. Giờ thì lão
huyên thuyên khoe với tôi. Cả thảy 21 chậu mai.
Nào là Hồng Diệp Mai tậu từ Sài Gòn; nào là
Thanh Mai ở tuốt Bình Định; nào là Bạch Mai mua
tận Thái Lan… Dẫu không có đất, thế mà lão có
từng ấy chậu mai, quả thật là tuyệt! Lão tỉ mỉ
giới thiệu cho tôi cái thú chơi mai. Phải biết
đợi chờ mai nở, đếm cánh mai nhiều hay ít để
đoán tài lộc, may mắn trong năm. Phải cảm nhận
được hương thơm của mai, hiểu được cốt cách -
tinh thần của mai. Phải thở với hơi thở của mai,
hít khí trời như mai… Lão cũng lên lớp với tôi :
“Như anh biết đấy! Tết đến mà thiếu mai thì mất
cả hương vị của ngày xuân, mất cả tình xuân”.
Con mắt của lão hóm lên ngời sáng như trêu tức
tôi. Tôi chỉ còn biết : “Dạ vâng! Dạ vâng! Bác
nói phải!”.
Lão chào hàng cả thảy 20 chậu mai. Chỉ còn
một chậu là lão không đả động gì đến nó. Theo
tôi biết, đây là chậu mai núi bình thường.
Nhưng, thế của cây mai quả là chỉ có tay sành
điệu mới tạo được dáng như thế. Thanh mảnh, dáng
dấp con gái. Nhìn chậu mai, tôi nghe như có
tiếng thì thào của đất, của trời. Và từ cây mai
toát ra cả mùi của suối rừng và nắng mới. Dẫu là
thứ mai núi, nhưng chậu mai đã cảm hóa được tôi.
Tôi cảm thấy hồn mình như đẹp thêm ra. Quả là
chậu mai núi đã thuyết phục được tôi trong chừng
mực nào đó. Tôi bèn đề nghị lão:
- Bác để chậu này cho tôi!
- Cũng có nhiều người nài nỉ tôi. Nhưng có
đựợc giá mấy đi nữa, tôi cũng không thể bán -
giọng lão chợt buồn như khi ngồi uống trà với
tôi trước đó - Nó là một phần hồn của tôi mà.
Không có nó, tôi cần sống làm gì nữa. Xin thầy
giáo thông cảm cho tôi!
- Bác nói thế thì tôi chẳng dám đâu. Nhưng
tôi xin bác kể cho tôi biết sao nó cần thiết với
bác đến như vậy?
- Ta vô nhà nói chuyện.
Chúng tôi lại ngồi vào chỗ như trước khi
xem mai. Vẫn không khí trầm lắng. Lão rót trà.
- Mời thầy giáo uống trà! Tôi sẽ kể thầy
nghe.
Tôi không dám đưa chén trà lên môi uống,
chỉ chú mục vào lão. Giọng lão run run: “Chậu
mai khi nãy, cả cô ấy nữa, cả chốn ấy nữa là một
đấy, thầy giáo ạ! Nhìn thấy nó là tôi nhìn thấy
cô ấy, chốn ấy. Thử hỏi như thế thì làm sao tôi
để mất nó được”.
Và lão kể…
Giọng lão trầm hẳn xuống. Tôi chơi vơi
trong câu chuyện. Nguyên trước đây, lão là đại
đội trưởng quân giải phóng. Xuân 1968, đơn vị
lão được lệnh tấn công huyện lỵ Đại Lộc. Tham
gia chiến dịch này, cấp trên đã phái xuống đơn
vị lão một nữ chiến sĩ. Thực ra, người nữ chiến
sĩ ấy là nhà thơ. Theo lão kể, cô tham gia trận
đánh là để làm thơ.
Kể từ ngày cô về đơn vị, tâm hồn lão như
sáng thêm ra. Cái duyên ít thấy ở người đàn ông,
ở người lính, lúc ấy phát ra thứ ngôn ngữ của
“thuở ban đầu lưu luyến ấy”. Cô ấy viết được câu
thơ nào đều đưa lão đọc. Đôi khi cô ấy chép
những vần ca dao về chuyện lứa đôi tặng lão. Dù
không nói gì với nhau, nhưng mùa xuân tràn ngập
trong mắt dịu dàng của họ. Họ như là của nhau.
Trận đánh năm ấy, quân ta gây được tiếng
vang. Thế nhưng, nỗi mất mát trong lão là cô ấy
đã hy sinh khi chưa viết xong bài thơ cho trận
đánh.
Khi rút quân về hậu cứ, đơn vị lão đã an
táng cô gái trong rừng mai. Mùa xuân vẫn còn rực
vàng như chưa hề có sự đau buồn và mất mát ở
đây. Lão đã khắc tên cô trên đá - đánh dấu nơi
an nghỉ của một con người, của một đồng đội, của
một trinh nữ, của một nhà thơ.
Đơn vị lão về hậu cứ an toàn. Đêm ấy, máy
bay giặc Mỹ thả bom phía rừng mai. Mỗi tiếng bom
nổ là vằm thêm trái tim lão. Lão trơ con mắt.
Con mắt đỏ theo tiếng bom. Cả khu rừng mai phía
ấy cũng đỏ lên…
Sáng hôm sau, khi trở lại rừng mai, lão
không tin ở mắt mình. Không còn dấu tích của
người con gái ấy ; không còn dấu tích của mùa
xuân. Lão rưng rức cúi đầu…
Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải
phóng, lão về lại chốn xưa, đúng cái ngày cô ấy
hy sinh. Lão ngợp hồn trong sắc vàng của mai,
lâng lâng chơi vơi trong hương mai. Lão thấy
mình như trẻ lại trong tiếng réo gọi của mùa
xuân. Lão nằm, nhìn lên đầy vàng mai. Lão ngồi
xuống, mai vàng. Lão chạy trong vàng mai. Lão
bay trong mai vàng. Bay trong mùa xuân của núi
rừng. Trong màu vàng xuân lão thấy hình như cô
ấy ẩn hiện đọc những vần thơ về mối tình đầu của
họ.
Về lại thành phố, lão đem theo một cây mai
rừng như là để tìm hình bóng cũ. Cả mùa xuân của
đời lão được vun vén, chăm sóc, nuôi dưỡng ở
trong chậu mai rừng…
… Lão đã khóc. Và cứ khóc. Lão nói trong
tiếng khóc. Tôi nghe tiếng khóc của lão: “Tôi
tìm hoài cô ấy mà không thấy. Chỉ có mai rừng,
chỉ có sắc vàng của mai. Tôi già rồi làm sao về
lại chốn ấy, làm sao tìm được cô ấy, làm sao đọc
được bài thơ cô ấy chưa viết xong?...”.
Một năm sau, tôi đến thăm lão. Lão không
còn. Tôi tự trách mình sao quá vô tình không
thắp được một nén hương cho ấm linh hồn lão khi
lão ra đi. Xin lão tha thứ cho tôi !
Rời căn nhà trước đây lão đã ở, tôi hòa vào
dòng người sắm Tết. Tôi vào chợ hoa ở Quảng
trường 29-3. Tôi không thấy gì ngoài hoa. Những
cành hoa đơm nụ. Người ta đang bán mùa xuân.
Người ta đang mua mùa xuân. Người ta trao nhau
mùa xuân. Tôi chọn mùa xuân cho mình : vàng mai.



Sưu tầm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bài đăng phổ biến